Tuesday, September 27, 2016

Nguyên nhân Điện Biên Phủ thất thủ - Trọng Đạt



I. Từ toàn quốc kháng chiến tới Điện Biên Phủ
Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính pháp tại Đông Dương, Đại sứ Nhật yết kiến nhà vua và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam . Bảo Đại bèn tuyên bố độc lập ngày 10-3-1945 và gia nhập khối Đại Đông Á, nhà vua ra tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945. Ông mời Giáo sư Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng thành lập nội các ngày 7-4-1945, lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm quốc ca, lấy cờ vàng quẻ ly gồm hai vạch liền và một gạch gẫy ở giữa làm quốc kỳ.
Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy tình hình trong nước rất xáo xộn, Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã cướp được chính quyền. Các vị triều thần như Thủ Tướng, Tổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cũng khuyên nhà vua thoái vị, vì quá sợ hãi Việt Minh đang bành trướng mạnh lại có vũ trang. Tháng 6 năm 1945 Hồ chí Minh đã được Mỹ thả dù xuống chiến khu cung cấp cho VM nhiều súng đủ các loại để chống Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội nên dù muốn chống lại phong trào cũng khó. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu
Ngày 2-9 Hồ chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập.
De Gaulle quyết định tái chiếm Đông dương để đòi lại chủ quyền những nhà máy, đồn điền, cửa hàng, mỏ than… mà Pháp cho là của họ. Tháng 9-1945 Thực dân thành lập Quân đoàn viễn chinh để tái chiếm Đông Dương, họ gặp sự kháng cự mạnh của người Việt và cường độ chiến tranh ngày một gia tăng có thể chia làm 3 giai đoạn (1)
-Chuẩn bị tái chiếm (1945-1946) – Theo dõi tình hình, móc nối Pháp kiều và những thành phần thân Pháp.
-Tái chiếm (1946-1949) – Pháp trở lại Đông Dương sau khi Nhật đầu hàng , đưa quân chiếm lại toàn cõi Đông Dương
-Chiến tranh khốc liệt- (1949-1954) Sau khi chiếm trọn vẹn nước Tầu, Trung Cộng huấn luyện và viện trợ cho Việt Minh nhiều vũ khí, đạn dược khiến tình thế ngày càng bất lợi cho Pháp, họ yếu thế và sa lầy.
Hội nghị Postdam tháng 7-1945 quyết định giao cho quân đội Trung Hoa giải giới Nhật phía trên vĩ tuyến 16, phía dưới thuộc quân Anh
Diễn tiến quân sự
Pháp theo chân quân Anh giải giới Nhật, tới Tân Sơn Nhất với 300 người lính đầu tiên ngày 11-9, sau họ đưa thêm nhiều quân sang chiếm các tỉnh dưới vĩ tuyến 16. Từ giữa tháng 10-1945 tới đầu tháng 2-1946 quân Pháp đã bình định được miền nam, chiếm lại được Vĩnh Long, Cần Thơ, Tây Ninh, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Long Xuyên, Châu Đốc, Cà Mâu….
Trong thời gian này họ đã đưa vào 50,000 quân tham chiến, 7,425 xe cộ đủ loại , 21,000 tấn quân nhu, tổng kết Pháp có 630 người chết và mất tích, 1,037 người bị thương (2)
Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật. Sau đó thương thuyết với Việt Minh
Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc cho đổ bộ lên Hải Phòng , ngày 5-3 quân Pháp và Tầu đã chạm súng nhưng sau đó hai bên đã dàn xếp. Việt Minh ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (3) và củng cố nội bộ, tiêu diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người
Ngày 18-3 Leclerc đưa quân từ Hải phòng lên Hà nội, ngày 27-3 Leclerc thảo tờ trình Chính phủ cho biết 6 tháng qua (9/1945 – 2/1946) có 600 lính Pháp bị giết, 1,000 bị thương. Từ giữa 1945 Việt Minh được Mỹ thả dù cho nhiều súng đạn để chống Nhật. Tháng 9 sau khi đầu hàng, nhiều người Nhật giúp súng đạn và huấn luyện VM chống lại Pháp vì họ cũng là da vàng. Quốc dân đảng Trung hoa không ưa Pháp và bán súng cho VM nên họ cũng thành lập được một lực lượng vũ trang đáng kể.
Theo nhận xét của Henri Navarre, cựu Tư lệnh Đông dương cuộc chiến này bị đối lập tại Pháp chống lại cho là cuộc chiến ô nhục, nhơ bẩn mà chính phủ không dám đặt tên cho nó. Những đợt tiếp viện, tăng quân yếu kém được thực hiện lén lút (4)
Theo tường trình của Leclerc VM được giúp đỡ nhiều, trước đó họ cũng đã được người Trung hoa và các phái bộ Mỹ giúp về quân sự, chính trị. Họ tuyên truyền mạnh và cả hăm dọa nên số người theo rất đông
Từ đầu tháng 4, quân Pháp lần lượt thay thế quân Tầu tại miền Bắc phía trên vĩ tuyến 16. Từ tháng 4 tới tháng 6-1946 Pháp thương thuyết với VM để giải quyết tình hình bằng ngoại giao, chính trị. Hội nghị Đà Lạt ngày 17-4 không có kết quả, Hồ chí Minh cùng Tướng Salan sang Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp từ 22-6 tới 27-7-1946. Ngày 6-7 khai mạc Hội nghị Fontainebleau , hai bên căng thẳng, phái đoàn VN bỏ ra về phản đối Pháp không thực lòng
Hồ Chí Minh ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại để hoãn binh. Tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và Pháp, nhân vụ nổ súng giữa các đơn vị VM và Pháp tại Hải phòng ngày 20-11-1946, thực dân chiếm luôn thành phố này hôm 23-11.
Leclerc từ chức Tư lệnh từ tháng 7-1946 nhưng vì tình hình căng thẳng, chính phủ Pháp cử ông sang Đông Dương điều tra ngày 18-12 nhưng đã quá trễ, hôm sau ngày 19-12-1946 chiến tranh toàn quốc bùng nổ khi VM tấn công quân Pháp tại Hà nội. Tình hình hai bên đã quá căng thẳng từ nhiều ngày trước.
Quân Pháp tại phía trên vĩ tuyến 16 có hơn một sư đoàn không đủ để bình định hết miền Bắc mà chỉ đủ giữ các thành phố. Trong mấy tháng đầu năm 1947 Pháp giải tỏa quốc lộ 5 nối Hà Nội Hải Phòng.
Chiếm Phủ lý 6-1-1947. Từ Đà Nẵng tiến ra Huế giải tỏa đơn vị Pháp bị vây tại đây, chiếm Quảng Trị ngày 18-2, chiếm Đồng Hới đầu tháng 3. Chiếm nhanh chóng mỏ than Hòn Gay. Chiếm các miền Thái thuộc Sơn La Lai Châu.
Đầu tháng 4-1947 tân Cao ủy Bollaert vận động thương thuyết với VM nhưng bất thành và chuyển sang tiếp xúc với Bảo Đại lập chính phủ Quốc gia chống Cộng Sản từ tháng 9-1947. Cựu hoàng ở Hồng kông hướng các hoạt động chính trị về quốc nội.
Tháng 10-1947 Pháp mở cuộc tổng tấn công qui mô lên miền rừng núi Việt Bắc để tiêu diệt chủ lực quân VM tại đây. Họ huy động 20 tiểu đoàn bộ binh và nhẩy dù có chiến xa yểm trợ. Trung Tướng Salan chỉ huy tổng quát chiến dịch: cánh thứ nhất từ Hà nội chiếm Sơn Tây, Hưng Hóa, Phủ Đoan Hùng, cánh thứ hai dọc theo quốc lộ 4 chiếm Thất Khê, Đông Khê. Giữa hai gọng kìm này là những cánh quân nhẩy dù chiếm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang ngày 13-10-1947, trong cuộc nhẩy dù xuống Bắc Cạn, Pháp đã bắt hụt Hồ chí Minh. Ngoài ra còn những nỗ lực phụ chiếm Tây Bắc Việt Bắc, chiếm Phong Thổ, Chapa. Cuộc hành quân không tiêu diệt được chủ lực quân VM vì họ né tránh để bảo toàn lực lượng. Sau đó Pháp rút về đồng bằng chỉ để lại quân tại vùng Đông Bắc Việt Bắc tại khu tam giác Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn.
Sang năm 1948, Pháp mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, chiếm đóng Sơn Tây và Việt Trì. Phía VM mở rộng hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công voa.
Pháp kiểm soát được Nam việt nhưng vùng Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Tây bắc Thủ Đầu Một… vẫn thuộc VM. Ngày 1-3- 1948 VM phục kích tiêu diệt đoàn công voa Pháp, tiêu diệt 70 xe gần La Ngà trên Quốc lộ 20. Các tỉnh Quảng Nam , Quảng Ngãi và Bình Định ở trong tay VM vì Pháp không đủ quân số để chiếm toàn thể lãnh thổ
Sang năm 1949 tháng 7 và tháng 8 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên; tháng 9 chiếm Phát Diệm và Bùi Chu.
Năm 1950 tình hình biến chuyển mau lẹ, gió đã đổi chiều khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên 304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự , tháng 9-1950 họ mở chiến dịch chiến dịch Lê Hồng Phong vào vùng Tam Đảo, uy hiếp Lào Kay, và mở chiến dịch Hoàng văn Thụ chiếm Đông Khê trên quốc lộ 4 khiến Cao Bằng bị cô lập.
Trước tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương nghiên cứu tình hình. Revers đề nghị với chính phủ cho rút khỏi Cao Bằng và được chấp thuận, đáng lẽ thực hiện sớm cuối năm 1949 nhưng vì để trễ tới cuối năm 1950 nên đã bị thảm bại.
Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh tan nát
Giữa tháng 10-1950 Pháp bỏ Lào Kay rút về Lai châu, bỏ Hòa bình.
Hạ tuần tháng 12-1950 Chính phủ Pháp cử Đại tướng De Lattre de Tassigny sang giữ chức Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh. Ngay từ giai đoạn này quân số VM đông hơn Pháp tại miền Bắc Pháp có khoảng 23 tiểu đoàn, VM có khoảng 70 tiểu đoàn, miền Trung Pháp 14, VM 18…Tháng 3-1951 De Lattre về Pháp xin tăng viện và được chấp thuận 11tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn truyền tin (5)
De Lattre là người có quyết định táo bạo tại trận Vĩnh Yên khi cho lệnh ném bom napalm ngay giữa mặt trận, ông quyết định nhanh chóng đã thắng lớn trong trận này. Đầu năm 1952 De Lattre về Pháp chết vì bệnh ung thư.
Tháng 1-1951 VM đã thành lập được 5 sư đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316, 320) và một sư đoàn pháo binh (351), họ có 81 tiểu đoàn bộ binh 12 tiểu đoàn pháo binh, 8 tiểu đoàn công binh.
Các trận đánh quan trọng và các chiến dịch lớn gồm:
Trận Cao Bắc Lạng

Từ giữa và cuối 1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers sang Đông dương nghiên cứu tình hình, ông đề nghị rút bỏ Cao bằng . Nếu thực hiện cuối 1949 thì thuận lợi nhưng vì để tới gần cuối 1950 mới cho rút nên đã thảm bại. Trận đánh kéo dài từ từ 29-9 tới 7-10-1950, toàn bộ quân Pháp triệt thoái gồm 7,000 người. Đại tá Charton chỉ huy đạo quân rút khỏi Cao Bằng về Đông Khê. Đại tá Lepage chỉ huy một lực lượng khoảng 5 tiểu đoàn để tái chiếm Đông Khê. Cả hai cánh quân bị một lực lượng lớn của VM khoảng 30 tiểu đoàn chận đánh tan nát.
Tổng cộng Pháp mất hai liên đoàn phải bỏ Lạng Sơn. Trận đánh rung động cả nước Pháp, thiệt hại trên 7,000 người vừa bị giết vừa mất tích, mất 13 khẩu đại bác 105 ly, 125 súng cối, gần 500 xe cộ, 3 chi đội thiết giáp, 940 đại liên, 1,200 trung liên và trên 800 súng trường . Số vũ khí này VM có thể trang bị cho 5 trung đoàn bộ binh (6)
Trận Vĩnh Yên từ 13-1-1951 tới 17-1-1951
Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, ngày 7-12-1950 chính phủ Pháp hốt hoảng cử Tướng De Lattre De Tassigny sang Đông Dương vào lúc này người Pháp đang mât tinh thần. Ông vừa làm Cao ủy vừa giữ chức Tư lệnh quân viễn chinh, lần đầu tiên một Tướng lãnh chỉ huy cả dân sự và quân sự. De Lattre tới Đông Dương ngày 17-12-1950 để cứu vãn tình thế và cũng để rửa hận cho trận thảm bại nhục nhã Cao -Bắc- Lạng cách đây hai tháng.
Tân Tư lệnh dám quyết định những việc mà các Tư lệnh trước không ai dám làm như tập trung xử dụng những người dân sự Pháp để đảm nhiệm canh phòng thay thế cho người lính để ra trận (7)
Sau trận đại thắng Cao Bằng mới đây, Việt Minh thừa thắng sông lên đem binh về “lấy nốt Thăng Long”. Ngày 10-1-1951 Võ Nguyên Giáp đưa hai sư đoàn 308, 312 chuẩn bị một cuộc tấn công lớn tại Vĩnh Yên gần Hà Nội và Châu thổ Bắc Việt. Việt Minh giải truyền đơn ní “Bác Hồ về Hà Nội ăn Tết”, tình báo Pháp đã biết VM tập trung quân ở đâu và mục tiêu chọn vào ngày nào.
Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Pháp được đánh một trận diện địa chuẩn bị trước. Võ Nguyên Giáp được cố vấn Tầu dậy cho lối đánh biển người, đẩy thanh niên vào tử địa. Trận đánh diễn ra tại một vùng đồi trọc chiều ngang 12 km, dọc 10 km, phía Bắc tỉnh lỵ Vĩnh Yên. VM tập trung quân tại vùng núi Tam Đảo, lực lượng VM gồm 2 sư đoàn 308, 312; Pháp gồm hai liên đoàn: liên đoàn bắc phi của Đại tá Edon, liên đoàn 3 của Đại tá Vanuxem đóng tại các đồn phía Tây để ngăn chận VM.
Ngày 13-1 Giáp cho tấn công chia cắt hai liên đoàn Pháp, Võ Nguyên Giáp gần hoàn thành lời hứa, Hà Nội mất tinh thần, bao chí Paris đăng tin Hà Nội sắp mất.
De Lattre bèn đích thân chỉ huy trận đánh. Ngày 14-1-1951 ông bay tới Vĩnh Yên, cho trưng dụng tất cả máy bay chở quân trừ bị từ miền nam VN ra Bắc, và cho tiếp tế từ Hà nội, từ miền Bắc. De Lattre lệnh cho hai lữ đoàn chiếm các ngọn đồi phía bắc Vĩnh Yên. Ngày 16-1 lúc 15 giờ Pháp chiếm lại đồi 101, 210, lúc 17 giờ sư đoàn 308 tập trung tấn công mạnh, lần đầu tiên quân Pháp đối diện với trận đánh biển người.
VM xung phong hết lớp này đến lớp khác cùng với yểm trợ của súng cối, hai bên đã trộn trấu. De Lattre có một quyết định thật táo bạo, ông huy động hàng trăm máy bay oanh tạc cơ và vận tải ném bom napalm, đây là trận oanh tạc lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, lửa cháy ngút trời giết hại đối phương và hy sinh cả binh sĩ của Pháp.
Với lối đánh táo bạo, dũng mãnh, De Lattre đánh cho Võ Nguyên Giáp và các cố vấn Tầu tả tơi, VM bị thiệt hại nặng, 6,000 bị giết, bị thương 8,000, 500 bị bắt làm tù binh, Pháp tổn thất một nửa.
VM trộn trấu tưởng là Pháp sẽ không dám pháo hay oanh tạc nhưng không ngờ De Lattre táo bạo, thí quân cả hai bên. De Lattre tung vào trận địa các đơn vị trừ bị trưa 17-1 và cho ném bom napalm đã đẩu lui những đợt tấn công cuối cùng của VM.
De Lattre đã cứu được Vĩnh yên và Hà Nội, ông cho tổ chức duyệt binh để trấn an dân chúng. Sau đó Pháp củng cố phòng thủ chờ VM. De Lattre gấp rút cải tổ quân đội và thành lập nhiều liên đoàn lưu động tại BV để phòng thủ chống VM. (8)
Võ Nguyện Giáp thất bại nặng ở Vĩnh Yên, ngày 23-1 ông ta nhận sai lầm, cũng lên án các chiến binh thiếu can đảm, hèn nhát và ca ngợi dân công đã mang tới mặt trận 5,000 tấn thực phẩm, súng đạn (9)
Trận Mạo khê.
Tháng 3-1951 Tướng Giáp cho mở trận tấn công định chiếm vùng núi Đông triều ở Tây Bắc Hải Phòng. Pháp có ba căn cứ bảo vệ khu quân sự Mạo Khê: Một đồn trên đồi mỏ Mạo Khê, một đơn vị chiên xa đóng tại khu phố Mạo Khê, một đại đội đóng tại nhà thờ Mạo Khê, tổng cộng 400 người.
Phía VM gồm sư đoàn 308, 312, 316, đêm 23-3 VM tấn công hạ 7 đồn dọc theo tỉnh lộ 18. Đêm 26-3 De Lattre tiên đoán VM sẽ tấn công đồn Mạo Khê, ông huy động gửi 3 tiểu đoàn tới, cho hải đoàn xung phong vào sông Bạch đằng yểm trợ hải pháo. Một giờ khuya 27-3 VM pháo kích, tấn công đồn mỏ Mạo Khê, sau nhiều đợt tấn công nhưng binh sĩ trong đồn chống cự và đẩy lui các đợt xung phong.
Mười giờ sáng VM tấn công đồn và cả khu nhà thờ Mạo khê, quân Pháp có máy bay và hải quân yểm trợ nhưng VM rất đông, một máy bay Hellcat bị bắn hạ. Tối 27-3, VM mở cuộc tấn công chót vào đồn và khu phố Mạo khê, phá hủy ba chiến xa Pháp. Sáu giờ sáng VM rút lui và không chiếm được mục tiêu.
VM có 500 người bị giết, Pháp khoảng 200, đây là trận thứ hai của VM đánh vào đồng bằng, De Lattre coi đây là chiến thắng quan trọng.
De Lattre sang Đông dương từ đầu năm 1951 tới nay được gần nửa năm đã phải đương đầu với hai trận lớn của VM. Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, quân Pháp mất tinh thần nhưng De Lattre với chiến thuật táo bạo, dũng mãnh đã chuyển bại thành thắng nâng cao tinh thần chiến đấu quân sĩ. Ông cho lập phòng tuyến bảo vệ châu thổ BV, chuyển bớt các đơn vị đóng đồn không cần thiết thành những đơn vị lưu động.
Trận Bờ sông Đáy. (10)
Trận qui mô được Tướng Giáp chuẩn bị chu đáo phía VM đưa vào ba sư đoàn 304, 308 và 320, Pháp cũng huy động lực lượng lớn gồm: 3 liên đoàn lưu động, một liên đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn nhẩy dù, 3 hải đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 30 chiến đấu cơ. Một trận đánh kéo dài 26 ngày trên một chiến tuyến dài 80km gồm nhiều giai doạn. Sư đoàn 308 đánh Ninh Bình, sư đoàn 304 đánh Phủ lý, sư đoàn 320 đánh vào giáo khu Phát Diệm phía nam Ninh Bình.
Gồm có 4 trận:
1- Ninh Bình (29-5 tới 30-5)
2- Yên Cư Hạ (4-6 tới 18-6)
3- Phát Diệm (8-6 tới 9-6)
4- Đông bắc Phủ lý (20-6 tới 23-6)
Tại trận Ninh bình VM để lại 350 xác chết , 153 súng trường, 40 tiểu liên, 12 trung liên, 2 đại liên, 9 súng cối. Phía người Pháp chết và bị thương 1,000 người, nhiều đại bác bị phá hủy, các tầu chiến bị hư hại, con trai De Lattre tử trận tại đây.
Trận Yên Cư Hạ từ 4-6 tới 18-6-1951, đây là một đồn kiên cố, xây bằng bê tông, có hàng rào kẽm gai. Tại trận này VM chết 200 người, hai đại đội Pháp giữ đồn chỉ còn vài chục người sống sót.
Trận Phát Diệm từ 8-6 tới 9-6. Sư đoàn 320 vào giáo khu Phát Diệm, uy hiếp tinh thần, phô trương lực lượng.
Trận Đông Bắc Phủ lý từ 20-6 tới 23-6. Trận phản công qui mô của Pháp vào vùng Phủ lý, Ninh bình, VM bị thiệt hại rất nhiều.
Qua các trận đánh thấy VM chưa thể thắng ở đồng bằng nhưng địch đã mạnh hơn trước. Hai bên tổn thất nặng. Pháp huy động nhanh các lực lượng tiếp viện hải, không quân.
Trận Hòa Bình
Tháng 9-1951, De Lattre chuẩn bị đánh Thanh Hóa nhưng đoàn tầu chở quân gặp bão nên phải quay về. De Lattre đổi ý cho đánh chiếm Hòa Bình, ông huy động 15 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn nhẩy dù, 2 liên đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 hải đoàn xung phong . Cuộc hành quân Hòa Bình ngày 9-11-1951 gồm 3 lực lượng và chiếm tỉnh dễ dàng. VM huy động các sư đoàn 304, 308, 312 tới mặt trận.
Đầu tháng 12 VM gây áp lực quanh Hòa Bình qua trận Tu Vũ, Xóm Phèo, họ chiếm được đồn nhưng bị thiệt hại nặng, VM phục kích đoàn tầu trên sông và bộ binh Pháp trên đường số 6, tại trận Xóm Phèo VM thiệt hại nhiều.
Salan thay thế De Lattre cho rút khỏi Hòa Bình, giữ Hòa Bình bất lợi vì địch có cao xạ bắn chính xác những máy bay hạ cánh, phục kích đoàn tầu. Binh lính hay bị sốt rét, chiến trường rừng núi không thích hợp với Pháp. Ngày 22-2-1952 bắt đầu rút để lo bảo vệ đồng bằng, tới 24-2 cuộc triệt thoái coi như chấm dứt.
De Lattre chuyển bại thành thắng, lên tinh thần quyết tâm đánh Hòa Bình nhưng tại rừng núi nhiều bệnh tật, Pháp thua VM tại rừng núi nhưng thắng tại đồng bằng. Lên rừng mất ưu thế không quân, binh sĩ không chịu nổi khí hậu rừng núi. Hòa Bình là một thất bại cho Pháp
Trận Miền Thái từ 11-10-1952 tới 1-12-1952. Xứ Thái gồm Sơn La, Lai Châu. Lực lượng VM tấn công xứ Thái gồm các sư đoàn 308, 312, 316, sư đoàn pháo 351 và các đơn vị công binh. Ngày 17-10 sư đoàn 308 đánh đồn Nghĩa lộ trong đó có 700 quân Pháp, VM pháo dữ dội rồi xung phong chiếm đồn bắt nhiều tù binh. Các đồn ở miền này bị đánh, chiếm, VM làm tan rã hệ thống phòng thủ dọc sông Hồng.
Hành quân Lorraine .
Pháp mở cuộc hành quân Lorraine ngày 29-10-1952 nhằm tấn công các tuyến giao thông, cơ sở VM tại Việt Bắc. Trung Tướng Salan lên làm Tư lệnh thay thế De Lattre, ông giao cho Tướng Linares (Tư Lệnh BV) chỉ huy và điều động chiến dịch gồm 4 liên đoàn lưu động, 3 liên đoàn nhẩy dù, 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 liên đoàn thiết giáp, 2 hải đoàn xung phong, 2 tiểu đoàn pháo, tổng cộng 30,000 người.
Pháp tảo thanh một vùng rộng lớn giữa sông Hồng và sông Đáy. Bộ chỉ huy đóng tại Việt Trì. Ngày 9-11 các tiểu đoàn nhẩy dù xuống bao vây Phủ Đoan, thị trấn bỏ ngỏ, Pháp chiếm được một kho quân nhu lớn. Ngày 14-11 tới Phủ Yên Bình cách Phủ Đoan 60 km về hướng Bắc không gặp kháng cự, không gặp người dân nào. Pháp mệt mỏi phải rút, VM cho 2 trung đoàn về đối phó. Ngày 17-11 Pháp lọt ổ phục kích VM dài 4km tại thung lũng Chấn Mương từ sáng tới 4 giờ chiều, Pháp nhờ không quân yểm trợ mới thoát ra khỏi, Pháp thiệt hại gần một tiểu đoàn
Pháo Lũy Nasan.
Trong khi ấy, Salan cho lập pháo lũy Nasan, ông chủ trương lập những cứ điểm mạnh dựa trên các sân bay hơn là mở những cuộc hành quân phiêu lưu.
Nasan là một thung lũng dài 2km, ngang 1km, xung quanh có 24 ngọn đồi. Một vị trí chiến lược quan trọng giữa các đường tiến quân tại miền Thái, các ngọn đồi ngăn chận đường tiến quân VM, mục đích của chiến lũy.
1- Để đón các toán quân Pháp rút từ các đồn bị cô lập ở Tây Bắc và Đông Nam
2- Ngăn chận VM tiến về Lai Châu
3- Tiêu diệt chủ lực quân VM nếu họ tấn công
Mặt trận Pháp bị chia làm hai, một ở Nasan và một ở Lai Châu. Pháo lũy Nasan thiết lập đầu tháng 11-1952, được tăng cường ngày 1-11 khi các đơn vị Thái được đưa về đây, một liên đoàn lưu động VN được chở tới bằng máy bay. Ngày 21-11 có ba tiểu đoàn nhẩy dù các pháo đội được đưa tới. Cuối tháng 11-1952 pháo lũy Nasan gồm tổng cộng 10 tiểu đoàn trong đó có lính nhẩy dù, bộ binh, các tiểu đoàn Thái. Ngoài ra còn một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo binh với 5 pháo đội, 2 chi đoàn thiết giáp, di chuyển khó khăn, bị hạn chế nên chỉ có 10 quân xa tiếp tế, tải thương. Đại tá nhẩy dù Gilles được giao chỉ huy mặt trận này.
VM tấn công đêm 23-11-1952 nhưng bị đẩy lui, đêm 30 rạng 1-12 VM thật sự tấn công lớn nhưng thất bại. Đêm 1 rạng 2-12 VM mở cuộc tấn công quyết liệt suốt đêm, họ chiếm được hai điểm tựa 21bis và 22 bảo vệ sân bay. Pháo binh Pháp bắn liên tục, trận đánh kéo dài tới hôm sau. Pháp cho nhẩy dù xuống đỉnh đồi mới giải tỏa được , VM bỏ lại hơn 600 xác chết và tịch thu được nhiều súng, trận này VM bị thiệt hại nặng, sau đó VM chỉ pháo kích chứ không đánh. Tổng kết mặt trận Nasan Pháp cho biết VM bị mất 5,000 người. Trận miền Thái chấm dứt, Pháp giữ được Lai Châu, Nasan. Người Pháp cho rằng việc thiết lập pháo lũy Nasan là tốt và sau đó họ thiết lập thêm pháo lũy tại cánh đồng Chum, tại Séno, và cuối cùng tại Điện Biên Phủ đưa tới thất bại.
Điện Biên Phủ.
Tháng 5-1953, chính phủ Pháp cử Đại Tướng Henri Navarre sang làm Tư lệnh Đông Dương thay Trung tướng Salan để cứu vãn tình hình quân sự tại đây. Ông cho lập một chiến lũy, một căn cứ lớn tại ĐBP.
Theo Navarre (11) mục đích cho đóng quân tại đây để ngăn chận VM tiến đánh Thượng Lào và tạo mặt trận lớn để địch không đánh châu thổ BV. ĐBP là một khu lòng chảo có núi đồi bao quanh, là một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km. Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch.
Chiến lũy ĐBP được xây dựng theo kiểu pháo lũy Nasan năm trước, Pháp tin tưởng cũng sẽ chống lại VM hữu hiệu và gây thiệt hại nặng cho đối phương. Navarre cho lập chiến lũy ngoài những mục tiêu kể trên còn để dụ VM lại giết một mẻ lớn làm suy yếu đối phương vì họ nay đã đông, mạnh hơn trước (12). ĐBP cách châu thổ BV 200 km, cách biên giới Tầu 300 km, cách Hà Nội 300 km.
Ngày 13-3-1954 trận đánh khởi đầu, Pháp có 12 tiểu đoàn, trong khi chiến trận diễn ra, Pháp cho nhẩy dù thêm 5 tiểu đoàn, tổng cộng toàn bộ vào khoảng 15,000 người. Phía VM tổng cộng có 5 sư đoàn chính qui vào khoảng 50,000 người, chưa kể 25,000 dân công tiếp tế . VM có 600 xe vận tải chở đạn dược tiếp liệu từ Trung Cộng sang ĐBP.
ĐBP chia làm ba khu, phía Bắc gồm hai căn cứ tại hai ngọn đồi, khu Trung ương gồm 5 trung tâm kháng cự và khu Isabelle ở phía Nam .
Hai tiền đồn phía bắc bị thất thủ vào ngày 13 và 14-3 sau một ngày giao chiến, hỏa lực địch quá mạnh, sau ngày 26-3 chỉ tiếp tế được bằng thả dù, số phận ĐBP đã được định đoạt. Tổng thống Eisenhower và các cố vấn đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt, Tòa Bạch ốc đã thảo luận, dự định trong suốt tháng 4-1954 nhưng kế hoạch bất thành.
Trận đánh kéo dài từ ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì ĐBP thất thủ, 11 ngàn quân Pháp bị bắt làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt hại khoảng 10,000 người.
Pháp thảm bại vì lực lượng địch đông gấp 4 lần, hỏa lực phòng không và pháo binh của VM do Trung Cộng cung cấp rất mạnh. Ngoài ra không quân Pháp thiếu khả năng yểm trợ cho một trận đánh quá lớn. Navarre chưa có kinh nghiệm về Đông Dương đã sai lầm cho lựa chọn trận đánh tại một địa điểm xa xôi chỉ tiếp tế được bằng máy bay mà thực ra không quân Pháp quá yếu, toàn chiến trường Đông Dương họ chỉ có chưa tới 200 máy bay.
ĐBP là trận đánh lớn nhất và quan trọng nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất đồng thời cũng là một trong những trận đánh quan trọng trên thế giới.
Tình hình chính trị
Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8. Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, ông được Hồ chí Minh mời làm cố vấn. Tháng 9-1946 ông được đưa qua Trùng Khánh để tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch, sau đó Cựu hoàng bỏ trốn qua Hồng Kông.
Khi đã chiếm được được các thành phố tại Trung châu Bắc Việt, Trung Việt, các tỉnh cao nguyên, Nam Bộ. Pháp bằt đầu chiêu dụ dân chúng, đón tiếp người hồi cư, trả lương cho công chức. Dân tản cư kéo về ngày một đông hơn, dân quê có, dân tỉnh hồi cư cũng có, họ không tin tưởng vào cuộc kháng chiến gian khổ và đẫm máu của Việt Minh.
Người Pháp tính tới việc dùng chiến tranh tâm lý, chính trị để tranh thủ nhân tâm, họ cần một người ôn hòa, thân Pháp, được toàn quốc biết tới, giúp họ để chiêu dụ người dân. Cựu hoàng Bảo Đại là người đủ điều kiện và có thẩm quyền nhất, ông đã là vua, được nhân dân kính trọng, có tinh thần quốc gia và công nhận quyền lợi của người Pháp. Họ nghĩ tới cựu hoàng Bảo Đại và tìm cách mời ông về nước. Báo Thời sự ở Hà Nội đưa ý kiến thỉnh cựu hoàng hồi hương lãnh đạo phong trào Quốc gia chống Cộng và dành độc lập.
Nhiều cuộc biểu tình khá lớn để ủng hộ và yêu cầu cựu hoàng về nước cứu vãn thời cuộc như tại Huế ngày 12-8-1947, ở Hà nội ngày 1-9-1947 và cả Sài Gòn (13). Ngài đã là vua nay đứng đầu nước là lẽ tự nhiên , năm 1945 Ngài thoái vị để tránh đổ máu để bây giờ đất nước bị chiến tranh tàn phá.
Giải pháp Bảo Đại được nêu ra từ đầu 1947 nhưng hai năm sau mới thực hiện được.
Nhiều nhà cách mạng lưu vong taị Hồng Kông đề nghị cựu hoàng về gánh vác việc quốc gia, người Pháp cũng liên lạc với ông đề nghị tương tự nhưng ông vẫn dè dặt. Bảo Đại tuyên bố với phái đoàn quốc nội ra mời Ngài về nước, ông nói tôi vì hạnh phúc của dân mà thoái vị, nay nếu nhân dân lại muốn tôi giúp nước và điều đình với Pháp tôi sẽ sẵn sàng nhận để đòi hỏi độc lập thống nhất cho Việt Nam.
Ngày 6-12-1947 Bảo Đại nhận lời mời của Cao uỷ Bollaert và gặp ông tại vịnh Hạ Long để trao đổi nhận xét tình thế rồi lại về Hương Cảng. Ngày 19-12-1947 một phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu sang Hương Cảng thúc dục Cựu hoàng về lãnh trọng trách, ông chấp nhận và nói còn phải sang Âu châu vận động.
Kế hoạch thành tựu, ngày mồng 5-6-1948 trên một chiến hạm tại vịnh Hạ Long, Bollaert nhân danh chính phủ Pháp long trọng tuyên bố nước Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận chính thức việc điều đình với Pháp trên căn bản đó và công nhận một chính phủ lâm thời do Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân điều khiển. (14)
Trong giai đoạn đầu chính phủ Quốc gia chưa có quyền, chỉ có tính cách tượng trưng, lo giúp dân hồi cư, mở trạm cứu thương, trường học, đáng kể là lập toà án, các đoàn cảnh vệ, trường Võ bị Huế, nơi huấn luyện sĩ quan Quốc Gia Việt Nam đầu tiên.
Ngày 8-3-1949 tại điện Elysée, Cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Aurilole trao đổi văn thư thừa nhận Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 14-6-1949 Quốc Trưởng Bảo Đại hiệu triệu quốc dân tại toà Đô sảnh Sài Gòn sau khi miền Nam sáp nhập vào lãnh thổ Quốc gia, Cựu Hoàng kêu gọi nhân dân hãy đồng tâm nhất trí. Người dân cho rằng Pháp trả được phần nào hay phần nấy, nay Ngài đã về y như nhà có nóc.
Chính phủ Bảo Đại chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950, kế đó là các chính phủ Nguyễn Phan Long 1950, Trần Văn Hữu 1950-1951. Chế độ không có hiến pháp mà chỉ có hai đạo dụ ngày 1-7-1949 về tổ chức công quyền. Quốc trưởng có quyền lập pháp, ban hành đạo dụ, Thủ tướng được ủy nhiệm do Quốc trưởng bổ nhiệm.
Từ 1947, cách đây hai năm, sau khi Pháp mở rộng các khu vực chiếm đóng tại các thành phố miền Bắc và Trung bộ, người dân trong vùng Việt Minh đã trở về các thành phố ngày một đông. Cửa hàng cửa hiệu đã đầy hàng hóa nhập cảng, Pháp tạo không khí sinh hoạt ổn định và lấy lòng dân. Nay Cựu hoàng về nước trị vì đã gây được niềm tin tưởng nơi người dân y như nhà có nóc mà núp, có cột mà dựa. Từ đấy dân chúng hồi cư tấp nập về thành thị, trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35,000 người. Quân Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân như Bùi Chu, Phát Diệm ngày 16-10-1949. Công chức kéo về rất nhiều, chính giới Pháp Việt đã cho giải pháp Bảo Đại đem lại thắng lợi trước cảnh hồi cư đông đúc tại nhiều tỉnh miền Bắc, người dân bỏ già Hồ về với Cựu hoàng.
Diện tích vùng thuộc Pháp tại Trung châu tăng lên gấp ba, số ruộng cầy cấy tăng lên nhiều. Gạo xuất cảng từ 59,000 tấn năm 1945 tăng lên 379,000 tấn năm 1950, nhân công dồi dào, an ninh bảo đảm hơn, các ngành sản xuất than đá, vải sợi, xi măng, đường… đều tiến bộ. Trị giá nhập cảng năm 1946 là 16 tỷ đồng quan Pháp đến năm 1949 tăng lên 73 tỷ đồng. Hàng hoá tràn ngập các cửa tiệm, chợ búa, các ngành sản xuất cũng tiến hẳn lên, lương bổng công tư chức khá cao. Cựu hoàng về nước đem theo nhiều thuận lợi, vùng chiếm đóng nay là vùng Quốc Gia mở rộng dễ dàng, Việt Minh chỉ đột kích, khủng bố chưa có trận đánh lớn. (15)
Từ 1949, chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã được một số khá đông các nước công nhận và đã bắt đầu bước vào chính trường ngoại giao, đã được gia nhập trên 30 cơ quan quốc tế với tư cách hội viên: Ủy hội kinh tế Viễn đông Ecafe, Tổ chức Y tế quốc tế, Lao động quốc tế, Lương nông Quốc tế, Văn hóa Quốc tế Unesco… Hoa kỳ đã đặt Phái bộ viện trợ quân sự từ ngày 6-3-1950, viện trợ thương mại từ tháng 7-1950, đã ký kết hiệp ước tương trợ Việt Mỹ.
Quân đội Quốc gia được thành lập và phát triển nhanh, năm 1950 mới có 5 tiểu đoàn, năm 1951 tăng lên 26 tiểu đoàn, năm 1953 lên 6 sư đoàn gồm 167,000 binh sĩ và 3,500 sĩ quan, lương bổng do chính phủ trả tượng trưng một ít còn lại do Mỹ đài thọ. Cấp chỉ huy được đào tạo tại các trường võ bị, trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng 5-11-1950, trường Quân y thành lập 7-8-1950, trường Không quân thành lập 24-6-1951, trường Hải quân từ 1-1-1952. Các tổ chức quân sự khác cũng được thành lập như Toà án quân sự ngày 22-11-1951, Bộ Tổng Tham Mưu ngày 12-4-1952. Nhiều luật lệ quân sự được ban hành : Qui chế Quân đội Dụ số 1 ngày 30-1-1051, Bộ Quân luật Dụ số 8 ngày 14-4-51, Chế độ Quân dịch Dụ số 29 ngày 29-6-53.
Tổ chức Tư pháp và các Toà án Việt nam do Dụ số 4 ngày 18-10-1949, Qui chế các thẩm phán, do các Sắc lệnh ngày 1-12-1950, Toà án Hành chánh được thiết lập từ 5-1-1950.
Hành chánh địa phương: Các Hội đồng đô thành, thành phố và thị xã được tổ chức từ 1952.
Các tổ chức chuyên môn hành chánh như Viện thống kê ngày 10-12-1949, Việt Nam thống tấn xã ngày 22-1-1951, Quốc gia kiến ốc cục 15-6-1951, Sổ số kiến thiết Quốc gia 16-8-1951, Sở Du lịch Quốc gia 5-6-1951, Công ty hàng không 30-10-1951, Trường Quốc Gia Hành chánh 7-4-1952.
Giáo dục văn hoá: Trường Đại Học Văn Khoa, Sở Bảo tồn cổ tích ngày 4-1-1950, Trường Cao đẳng sư phạm 16-1-1950.
Kinh tế xã hội. Bộ Luật Lao động ban hành ngày 10-7-1952, Bộ luật cải cách điền địa ngày 4-6-53.
Qui chế nghiệp đoàn 16-11-1952; Qui chế Công chức Quốc gia Dụ số 9 ngày 14-7-1950; Qui chế các Hiệp hội Dụ số 10 ngày 6-8-1950; Qui chế Thể thao thanh niên Sắc lệnh 53 ngày 17-6-1950; Qui chế Hàng hải Dụ số 6 ngày 19-4-1951; Bộ luật thuế trực thu, gián thu Dụ số 4 ngày 13-4-1953….
Từ tháng 7-1949 đến tháng 7-1954 Quốc gia Việt Nam đã có 8 chính phủ và 5 vị Thủ tướng .
Chính phủ Bảo Đại Từ 1-7-1949 đến 22-1-1950, hơn 6 tháng
Chính phủ Nguyễn Phan Long từ 22-1-1950 đến 6-5-1950, hơn 3 tháng
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 6-5-1950 đến 21-2-1951, 9 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 21-2-1951 tới 7-3-1952, 12 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu 7-3-1952 tới 25-6-1952, 3 tháng18 ngày
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 25-6-1952 tới 8-1-1953, 6 tháng rưỡi
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 8-1-1953 tới 11-1-1954, 12 tháng 3 ngày
Chính phủ Bửu Lộc từ 11-1-1954 tới 7-7-1954, gần 6 tháng. (16)
Chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chính từ ngày song thất 7-7-1954 đúng hai tháng sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, hai tuần trước Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7, sau đó chính phủ Quốc gia rút vào Nam
Trong thời kháng chiến này người dân vùng thôn quê, thượng du vô cùng gian khổ, ban ngày quân Pháp hành quân bắn phá, cướp bóc hãm hiếp. Ban đêm VM về thu thuế, bắt bớ, thủ tiêu tình nghi phản động. Nhiều người trốn lên tỉnh để thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng.
Giaỉ pháp Bảo Đại mang lại nhiều thành quả tốt đẹp, người dân từ các vùng lửa đạn đã trốn về thành, họ không tin tưởng cuộc kháng chiến đầy máu lửa của VM. Quốc trưởng Bảo Đại đã xây dựng được nền móng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam , tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa sau này. Người Pháp ngoan cố theo đuổi chính sách thuộc địa lỗi thời không những bị người bản xứ chống đối mà cả Hoa Kỳ và chính phủ Tưởng Giới Thạch đều không muốn Pháp trở lại Đông Dương. 
Cuộc chiến đẫm máu tám năm khói lửa từ cuối năm 1946, chấm dứt giữa năm 1954 đã khiến khoảng 300,000 thanh niên tử trận, 500,000 bị thương, thường dân có 150,000 người thiệt mạng. Quân đội Liên hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả chết, bị thương và bị bắt (18). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường, nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng bị tàn phá. Mấy năm sau miền nam cũng biến thành bãi chiến trường tàn khốc trong một cuộc chiến khác dài và đẫm máu hơn.
Chú thích
(1) Quân Sử 4, Quân lực VNCH Trong Giai Đoạn Thành Hình, Bộ TTM VNCH trang 11, 12
(2) Sách kể trên trang 95, 96
(3) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15 nói chúng ta công nhận VN là một nước độc lập, có Quốc hội, Quân đội, Tài chính nằm trong Liên hiệp Pháp, đổi lại chúng ta được thay 200,000 quân Tầu bằng 15,000 quân Pháp phía trên vĩ tuyến 16
(4) Sách kể trên trang 17
(5) Quân sử 4 trang 46, 47, 48
(6) Quân sử 4 trang 124, Street Without Joy trang 32, 33
Trong bài Bataille de la RC4 (wikipedia) , Việt minh có 670 người bị giết, bị thương, Pháp 2,000 ngưòi tử thương, 3,000 bị bắt làm tù binh
(7) Street Without Joy trang 36
(8) Quân sử 125-128, Street Without Joy trang 37- 40
(9) Street Without Joy trang 40
(10) Quân sử 4 trang 133-144
(11) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine , trang 188-200
(12) Bernard Fall, Hell In A Very Small Place , Preface trang ix
(13) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển thượng, 1939-1954, trang 144
(14) Sách kể trên trang 158, 160, 161
(15) Sách kể trên, trang 173,174
(16) Sách kể trên trang 206-210
(17) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 13
(18) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine
II. Nguyên nhân Điện Biên Phủ thất thủ
Nguyên nhân sụp đổ Điện Biên Phủ đã được nhiều người bàn luận từ thập niên 50 cho tới nay và người Mỹ vẫn viết về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 cũng như về trận đánh này.
Tôi xin đề cập tới ý kiến của giới quân sự, các nhà sử gia nghiên cứu để có thêm nhiều nhận định ngõ hầu soi sáng vấn đề
Trước hết ý kiến giới chức quân sự
Tướng Navarre. Ông được cử làm Tư Lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ tháng 5- 1953 để cứu vãn tình thế trong khi Pháp suy yếu, Việt Minh (VM) ngày càng mạnh, họ kiểm siểm soát gần hết lãnh thổ Việt Nam. Đầu tháng 6-1954 ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954. Năm 1956, Navarre viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối để bào chữa cho ông và quân đội Pháp về nguyên do bại trận tại Điện Biên Phủ đồng thời cũng qui trách nhiệm cho chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối, sụp đổ cuộc chiến Đông Dương 1946-1954.
Sau khi ĐBP thất thủ, Navarre trả lời phòng vấn trong một cuộc họp báo, nhận trách nhiệm hoàn toàn về kế hoạch, quyết định tác chiến trong trận ĐBP (1)
Ông phủ nhận một số phán đoán cho rằng quyết định đánh ĐBP trái với ý kiến của của một số vị cấp bộ trưởng trong Chính phủ, các vị chỉ huy quân sự, một số thuộc cấp của ông.
Kế hoạch quân sự tại ĐBP của Navarre đã không hề bị một cấp chỉ huy quân sự nào chống lại. Bản kế hoạch này cũng đã được sự chấp thuận của Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng Bộ quốc phòng và Chủ tịch ủy ban các TTM. Không hề có thuộc cấp nào của ông trong Lục quân, Không quân- ít ra những người trực tiếp liên quan- phản đối.
Trong cuốn sách kể trên (2) Navarre đã nêu rõ những nguyên nhân thất thủ của ĐBP, trước hết ông đưa ra những lý do phụ, nhỏ như.
-Tổ chức phòng thủ, chỉ đạo cuộc chiến có thiếu sót sai lầm.
-Sự phân chia các trung tâm kháng cự trong khu lòng chảo cần thảo luận lại.
-Một số đơn vị tác chiến phẩm chất kém nhất là những tiếu đoàn người Thái đáng lý phải được thay thế trước khi xẩy ra trận đánh bằng những đơn vị thiện chiến hơn lấy từ Châu thổ BV.
-Một số địa thế không được bảo vệ đầy đủ và đủ sức chống lại đạn đại bác và súng cối nặng của địch.
-Việc xử dụng quân trừ bị cần bàn lại.
-Luyện tập chống pháo binh và cao xạ địch không đủ, vì các chuyên viên quá lạc quan, đã để địch biềt quan niệm của mình, khinh địch.
-Trong một số lãnh vực, bộ chỉ huy Hà nội không tích cực đối với đồn lũy ĐBP.
-Phối hợp không quân và bộ binh không được bảo đảm hữu hiệu.
Những thiếu sót và sai lầm trên không thể qui cho cấp chỉ huy đồn lũy và bộ chỉ huy Không quân nhưng nhất là Lục quân Bắc việt, chịu tràch nhiệm chuẩn bị và lãnh đạo cuộc chiến. Navarre nhận trách nhiệm toàn bộ vì ông là Tư lệnh.
Theo Navarre những khuyết điểm trên chỉ ảnh hưởng nhẹ tới cuộc chiến.
Những khuyến điểm sâu xa về sự thất thủ ĐBP được ông nêu ra như sau.
-Pháp thiếu phương tiện chiến tranh, thiếu từ 6 tới 8 Liên đoàn lưu động mà chỉ có nó mới giải cứu được hữu hiệu.Trong khi Việt Minh thành lập được Quân đoàn chính qui gồm tương đương 9 sư đoàn lưu động, Pháp chỉ tương đương 3 sư đoàn lưu động (3), đó là cái giá phải trả vì đã để cho địch thành lập nhiều đơn vị hơn Pháp từ trước.
-Về mặt phẩm cũng không đủ để bù vào sự yếu kém về lượng, cấp chỉ huy kém khả năng, đa số sĩ quan, hạ sĩ quan thiếu kinh nghiệm chiến trường, thiếu huấn luyện. Phía người VN (đi lính cho Pháp) tỷ lệ yếu kém cao. Suốt trận đánh cho thấy sự yếu kém về mặt phẩm của bộ binh. Pháp cũng trả giá nhiều sai lầm tích tụ lại trong quá khứ vì không chịu chi phí, chỉ muốn đánh trận rẻ tiền.
-Không quân Pháp thiếu thốn nhiều, yêu cầu tăng viện của Navarre không được thỏa mãn, hoặc gửi tới quá trễ. Nếu gửi kịp thời sẽ khiến Pháp chiến đấu trong điều kiện thuận lợi hơn, Việt Minh đã thiết lập những trang bị kiềm chế Pháp rất nhiều.
-Cung cấp cho đồn lũy giờ phút cuối khi đã hỗn loạn thì vô dụng. Khi viện trợ Trung cộng gia tăng ồ ạt là lúc Pháp cần một lực lượng không quân có khả năng mạnh hơn mười lần. Chỉ có Mỹ có thể cung cấp cho Pháp nhưng dù đã xin họ cũng vô vọng. Số lượng viện trợ lớn gia tăng ồ ạt của Trung Cộng cũng là một nguyên nhân đưa tới sụp đổ ĐBP. Pháp bị bất ngờ vì đứng trước một hình thức chiến tranh hoàn toàn mới tại Đông Dương.
-Đại bác, súng cối hạng nặng của địch pháo kích ồ ạt khiến quân trú phòng Pháp hoảng hốt, mất tinh thần. Ngay cả 1940 bộ binh Pháp bị không quân Đức tấn công phản nằm bẹp dưới đất nhưng lính Pháp tại ĐBP tinh thần còn xuống thấp hơn thế. Phản ứng của họ chậm trễ để ngăn ngừa sụp đổ và tái chiếm những điểm chính đã bị mất, nó ảnh hưởng lớn tới trận đánh.
-Máy bay trinh sát bị cao xạ VM ngăn chận khiến họ không chỉ điểm cho pháo binh Pháp. Khi bị đích pháo không phản pháo được, pháo binh Pháp bất lực không còn là ưu thế tại Đông dương như trước.
-Phi cơ Pháp bất ngờ trước màng lưới phòng không dầy đặc của VM, phải thả dù ớ độ cao, vì yếu kém do thiếu phương tiện nên hiệu quả giảm.
-Có sự bất ngờ tại ĐBP nhưng không do lỗi của sở quân báo Đông dương, khả năng chỉ có giới hạn, họ mù tịt về những chuyện bên trong Trung Cộng, không biết gì về hoạt động của Bộ chỉ huy VM.
-Ta không biết về địch, ngược lại họ lợi thế biết nhiều về Pháp vì những tin tức do báo chí Pháp tiết lộ hay rò rỉ ồ ạt như thác có tầm vóc chính phủ Pháp.
-Dù vậy, Pháp vẫn luôn có những tin tức gần chính xác về địch, về hiện tại và những chuyện sẽ xẩy tới trong thời hạn vài tuần nhưng không thể biết những việc VM dự định trong thời gian xa.
-Pháp chỉ biết kẻ địch bây giờ và xa hơn một chút ví như khi người ta xây một cây cầu 10 tấn sẽ dự liệu một giới hạn an toàn lên tới 15 hoặc ngay cả 20 tấn nhưng không thể lên tới 100 hay 150 tấn. Đó là cách Pháp đã làm tại ĐBP, nếu sức mạnh của địch chỉ nhân lên 2 hay 3 thì sẽ chịu được sự tấn công của họ vì Pháp đã bố trí xong. Nhưng thực ra nó lại là một hệ số nhân quá lớn trong nhiều lãnh vực: Khả năng vận tải và sửa chữa đường giao thông, hỏa lực pháo binh và phòng không.
-Navarre nói:
“Chính vì cái lãnh vực cuối cùng mà yếu tố bất ngờ rất lớn. Chúng tôi biết rõ VM có pháo binh và phòng không. Chúng tôi biết tầm quan trọng của nó vá cách họ bố trí đạn dược. Chúng tôi đã tiên đoán số khấu pháo và kho đạn sẽ tăng lên, nhưng chúng tôi đã định giới hạn cho khả năng gia tăng này. Đó là trong trường hợp giới hạn này dã bị vượt quá xa mà sự bất ngờ nằm trong đó. “Chỉ huy là tiên liệu”. Dĩ nhiên là thế, nhưng nếu một cấp chỉ huy chỉ tiên đoán cái xấu tệ sẽ khiến mình không dám làm gì cả”
-Vì chính phủ Pháp đã không theo ý kiến của Tư lệnh Navarre quyết định tham dự Hội nghị Genève khi đang có trận chiến lớn, quyết định đã thay đổi hậu quả của vấn đề.
-Cấp lãnh đạo VM trước đây không muốn gây thiệt hại lớn cho các đơn vị chính qui như tại Nassan, Cánh đồng Chum, nhưng vì có Hội nghị Genève họ đã liều hy sinh lực lượng lớn để lấy thế mạnh tại bàn Hội nghị.. Cũng vì có Hội nghị Genève mà Trung cộng đã viện trợ cho VM ồ ạt chưa từng có.
Vì Chính phủ Pháp tham gia Genève mà gió đã đổi chiều.
-Genève đã cho VM một cơ hội hòa bình nhanh và thắng lợi, đã nâng cao tinh thần họ và chơi liều hết mình để bảo đảm một thắng lợi huy hoàng của cơ hội bất ngờ.
-Hội nghị Genève đã khiến Trung cộng cho VM một khối viện trợ lớn lao để lấy ưu thế trên bàn hội nghị, từ nay không còn hiểm nguy nữa, nó là nguyên nhân mà những phương tiện vật chất của Pháp bỗng nhiên đứng trước một vị trí quyết định vì bị thua xa địch.
-Ngày mà Hội nghị Genève được quyết định tổ chức thì số phận của ĐBP đã được xác định rõ.
Jules Roy- Sĩ quan Không quân Pháp từ Thế chiến thứ hai, tiếp tục trong quân ngũ tới 1953. Roy giải ngũ khi mang cấp bậc Đại tá vì chống cuộc chiến tranh Đông dương mà ông ta cho là tàn bạo, cuộc chiến ngu xuẩn và bất chính. Roy tìm hiểu sự kiện, ra thăm ĐBP, viết Trận Điện Biên Phủ, cuốn sách nổi tiếng, xuất bản 1963, best seller tại Pháp.(4)
Roy chỉ trích Tư lệnh Đông dương rất nặng nề. Ông trích dẫn những danh ngôn của người xưa về quân sự, chính trị để kết án Navarre hoặc phủ nhận mọi sự bào chữa của vị Tư Lệnh này.
Khai sinh một huyền thoại
“Một vị Tư lệnh không thể biện hộ cho lỗi lầm của mình khi nhận lệnh của Quốc vương hay ông Bộ trưởng, khi mà người ra lệnh không có mặt tại chiến trường và hoàn toàn không biết gì về sự kiện, diễn tiến mới sẩy ra. Đúng lý ra, một Tư lệnh khi thi hành một kế hoạch nếu thấy nó sai lầm, ông ta phải nêu lý do, đề nghị sửa sai kế hoạch và sau cùng từ chức hơn là làm công cụ cho sự sụp đổ của đạo quân” (5)
Napoléon – Châm ngôn và tư tưởng quân sự
Cái bẫy
Ta phải cẩn thận chọn cao điểm để ta có thể đổ xuống đánh địch rất có lợi. Nhưng điểm quan trọng nhất là đóng quân trên cánh đồng dưới chân núi mà kẻ địch có thể chiếm dễ dàng. Vì pháo của địch có thể nghiền nát ta từ cao điểm gần đó, ta không thể tránh bị pháo địch bắn ta liên tục dễ dàng. Quân ta đang bị bối rối khó mà đánh lại địch”
Machiavelli- Binh thư, Quyển IV (6)
Điếu văn cho trận Điện Biên Phủ
“Chính là tinh thần đã chiến thắng và sẽ luôn luôn thắng trận, nó cũng đã thắng trong tất cả mọi thời đại của lịch sử thế giới. Giá trị của tinh thần chiến đấu không bao giờ thay đổi từ xưa đến nay. Trang bị cơ khí, súng ống chính xác, tất cả những sấm sét do con người sáng chế ra cùng với khoa học không bao giờ có thể hơn cái mà (trong lúc đó bị coi rẻ) người ta gọi là tinh thần
Barley d’Aurevilly (7)
“Trong chiến tranh, một trận thảm bại luôn được coi là trọng tội”
Napoléon (8)
Jules Roy nhận định (9) mặc dù đã tiên đoán trước nhưng ĐBP thảm bại đã làm ông kinh sợ, lý do tại sao tại ĐBP đạo quân thắng trận lại là quân đội được trang bị yếu hơn. Suy cho cùng một bên có niềm tin và một bên không có, ý của người dân muốn chiến đấu hay họ bác bỏ. Nói nôm na thì tiền, đàn bà và quyền lực là ba nguyên nhân xử lý ĐBP vào thời điểm đó. Người khôn ngoan làm giầu, người lính bắn giết hoặc bị giết, lương tâm suy đồi, tinh thần của người Pháp đặt không đúng chỗ, các nhà lãnh đạo Chính phủ hèn nhát không dám nhìn sự thật vì nó cần tới đạo đức mà họ không có. Tất cả đã đưa đất nước vào chỗ đáng khinh ghét nhất của thế kỷ.
Có đáng xấu hổ không?
Tại sao chúng ta xấu hổ khi đọc tên ĐBP?
Nếu một ông Tướng bị thất trận ĐBP chắc hẳn ông ta không có tài. Có lẽ cũng bởi các nhà chính trị không có cùng một quan niệm danh dự như các Tướng lãnh. Sau cùng có thể nói nước Pháp tỏ ra thờ ơ hoàn toàn với quân đội và cái tội bỏ quên “Không cứu những người lâm nạn”, nếu là người thường dân sẽ bị luật pháp trừng trị. Khi cả nước có tội sẽ đưa tới sự thua bại mà không bao giờ phục hồi và cuối cùng sẽ bị diệt vong.
Chúng ta là người Pháp cần phải can đảm nhìn thẳng vào một trong những chiến lược sai lầm nhất của lịch sử
Trách nhiệm của nhân dân Pháp
Nếu những người thất trận tại ĐBP được xét xử nhân danh người Pháp, họ sẽ bị kết án như thế nào? Vì đã đánh giá sai tình hình và đối phương? Nhưng ai cử Navarre vào chức vụ của ông? Ai đã giao nhiệm vụ cho ông ta và những người tiền nhiệm nếu không phải là các chính phủ của nền Đệ tứ Cộng hòa? Tại sao các chính phủ không kiểm soát các Tướng lãnh. Trên thực tế việc chỉ đạo ĐBP là do sự bất lực của Bộ chỉ huy cao cấp cũng như sự lãnh đạm quái gở của cả nước. Có thể nói Quốc phòng của đất nước coi chiến cuộc được tiến hành trong thời bình do những người lính đánh thuê để giữ các đồn điền cao xu, bông goòng, cộng đồng Thiên chúa giáo hay các trường học?. Về mặt trường kỳ mấy trăm ngàn người mang quân phục Pháp sống tại đó bị bệnh tật, thương tích hay bị giết chỉ vì phục vụ cho một chế độ đế quốc ngu xuẩn nhất trên thế giới, nó không muốn mất thị trường, lợi lộc lại giả mạo cuộc chiến đấu chống CS. Các nhà quân sự nhiệt thành của chúng ta phải chấm dứt xung đột bằng đàm phán vì không thể thắng được cuộc chiến.
Không ai nghĩ rằng các ông Tổng thống, Thủ tướng đã đưa đất nước vào tai họa lớn lao như thế. Vấn đề là khi nỗi đau đớn hiển nhiên không ai dám kết tội nó. Nội các nói họ bảo vệ Tây phương, họ điên khùng, quá khích, nhu nhược, kết hợp nhau trong sự ngu dốt. Họ đáng bị xử như thế nào khi giữ nhiệm sở, sự sai lầm và hèn nhát của họ khiến những người khác phải trả giá bằng máu. Còn về các Tướng lãnh không ai phủ nhận nhiệt tâm của họ phục vụ đất nước. Người dân Pháp mù điếc và kém thông minh là kẻ có tội nhất
Chìa khóa của lịch sử
Roy nói trong chuyến viếng ĐBP ông ta đã tìm ra thìa khóa đi tới nguyên nhân của sự thất thủ.
Trên đường đi tới ĐBP, Roy quan sát cảnh người dân làm ruộng, sinh hoạt chắt chiu kiếm lúa gạo… và tác giả đã tìm ra nguyên do: say men chiến đấu khiến họ liều thân vào súng máy, hàng rào kẽm gai là vì lý tưởng tự do và danh dự là bộ đội cụ Hồ.
Lỗi ở ai?
Trước hết quân đội của VM ăn mặc giống nhau, sống đơn giản, bình đẳng, đồng cam cộng khổ.
Các lãnh đạo ta tầm thường, coi địch như điên rồ, quân đội chỉ gồm những lãnh đạo thâm niên, tự mãn, không biết địch, tự mãn về quân đội và tiềm lực của mình.
Các vị chỉ huy Đông dương ở biệt thự với xe hơi, đàn bà, giải trí. Chiến tranh với những lều, tủ lạnh, sĩ quan, ban tham mưu đầy đủ tiện nghi. Các ông sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn trưởng không ăn uống cùng lính, cũng đi bộ với lính, sống với lính như kẻ địch của ta.
VM dùng những phương tiện thô sơ, xe đạp thồ, bom đạn không ngăn được tiếp tế. Navarre thua vì sự tinh khôn và ý chí của địch. Các nhà lãnh đạo quân sự vô cùng ngây thơ. Ngày 13-12 Navarre quyết định mở trận ĐBP trước sự ngạc nhiên của mọi người. Làm sao ông đổ lỗi cho việc chuyển quân không ngờ trước của Tướng Giáp, ông này mở cuộc tấn công sớm hơn 8 tháng như dự đoán. Cái gì bắt Navarre đặt căn bản lý luận trên giả thuyết rằng VM không bao giờ thay đổi phương pháp và phương tiện và Giáp không vô phép đến độ đảo ngược kế hoạch của một ông Tướng đã trải qua “Trung tâm nghiên cứu quân sự tân tiến”. Làm sao ông bào chữa cho việc nghĩ rằng ông thành công ngăn chận được các sư đoàn VM tiến sang Lào mà chỉ có một sư đoàn đi qua ngã chận của ông đi Luang Prabang?
Navarre không nhận sai lầm của mình, không phải vì Hội nghị Genève mà Giáp mở trận tấn công ĐBP. Navarre là người độc nhất cùng Đại tá Berteil, cố vấn chiến lược hoàn toàn mù quáng. Không ai đòi hỏi ông liều lĩnh trong kế hoạch của mình mà ông phải tránh. Không ai buộc ông phải bảo vệ Lào, ai còn tin tưởng cái lạc quan của ông để gửi thêm tăng viện ông cần để tiếp tục cuộc chiến mà ông không biết chiến đấu như thế nào?
Tất cả những cái đó Navarre không biết hoặc giả vờ không biết bắt đầu bằng lý luận cho nên ông đã nhiều lầm lẫn, ông muốn một trận công khai và bị đóng khung trong đó. Từ chối một trận đánh lớn với đại quân VM ông lại thách thức địch, không biết rằng ông đã đem cả vận mạng của cuộc chiến vào trong một ván bài. Là chuyên viên tình báo, ông nghi ngờ tất cả những tin tức có được đối đầu với sự thất bại của mình, ông từ chối không nhìn nhận sự quan trọng của nó và đổ lỗi cho những nguyên do bên ngoài chứ không phải lỗi riêng của ông.
Sau cùng không lãnh đạo được ai, ông ta xử dụng sai những người ông có. Ai lựa ông ra trong hàng ngũ các Tướng? Thủ tướng, Tổng thống? Ai từ chối ông? Một Đại tá không quân và Cogny, phụ tá của ông. Trong chính phủ không ai dám, trong quân đội viễn chinh không ai dám nói sự thật. Navarre làm nhục Cogny, ông này trả đũa lại. Castries nói láo với báo chí. Ông Dejean (Tổng cao ủy) nói láo với Nội các và các Bộ trưởng nói láo với Quốc hội và Thủ tướng. Máu chẩy mà người Pháp yên lặng, Piroth (Đại tá pháo binh tại ĐBP) tự tử có danh dự quân đội hơn Navarre và Castries
Quân sử 4- hay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn thành hình 1946-1955, dầy 460 trang là cuốn Quân sử thứ tư của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH xuất bản năm 1972, nhà xuất bản Đại Nam tái bản tại Hải ngoại 1983.
Theo ý kiến Bộ TTM về khuyết điểm của Pháp tại ĐBP trước hết do thung lũng bị khai quang (10). Các mục tiêu đã bị lộ rõ làm mồi cho pháo binh VM trên đồi nhắm xuống.
Bộ TTM nhận xét chung về nguyên do Pháp thất trận ĐBP là do hậu quả những tính toán sai lầm của Pháp (11) . Về sự bố phòng, hai cứ điểm tiến tuyến phía Bắc là Gabrielle và Béatrice quá yếu ở xa tầm pháo binh yểm trợ của cứ điểm Isabelle phía Nam. Việt Minh chiếm được các cứ điểm trung ương chế ngự được phi trường và vô hiệu hóa mọi tiếp tế bằng không vận. Hầm trú ẩn tại ĐBP không được xây bằng bê tông nên không chịu nổi đạn pháo kích của VM. Trung tâm Isabelle phía Nam quá xa khu Trung ương khiến sự phối hợp và yểm trợ không được hữu hiệu.
Song sai lầm lớn nhất của Navarre là khinh địch, không ước tính chinh xác lực lượng tham chiến, khả năng tác chiến, tiếp tế của VM. Ông ta không ngờ VM đã tung vào ĐBP với trên 60,000 quân chứ không phải chỉ có 20,000 như ông đã dự đoán. Pháp không ngờ VM đem được nhiều đại bác đến mặt trận, họ đặt trên sườn núi xung quanh lòng chảo để bắn trực xạ mà Pháp không thể khám phá và tiêu diệt được. Số trọng pháo VM đã bắn phá dữ dội trong suốt thời gian họ vây hãm ĐBP.
Một sai lầm khác của Navarre là trong khi VM sắp đánh ĐBP thì ông lại theo đúng kế hoạch cũ mở màn chiến dịch Atlante làm phân tán chủ lực của Pháp khiến không thể cứu vãn ĐBP một cách đắc lực. VM tuy thắng trận này nhưng vì chiến đấu ròng rã tám năm đã thấm mệt nên vội ký Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh để nghỉ ngơi và ngăn ngừa sự tham chiến bất ngờ của Mỹ.
Ý kiến các nhà nghiên cứu
Bernard Fall. Ông là nhà nghiên cứu sâu sắc về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Trong phần kết luận cuốn Hell in a Very Small Place (12) Bernard Fall nói Việt Minh hơn Pháp về tình báo, khi ước tính pháo binh đối phương được đưa tới ĐBP họ tính đúng hơn Pháp. Một trung đoàn bộ binh VM có môt pháo đội 4 khẩu sơn pháo 75 ly, một pháo đội 4 khẩu súng cối 120 ly hạng nặng. Sư đoàn pháo binh 351 có thể cung cấp 3 tiểu đoàn pháo 105 ly, một tiểu đoàn pháo có 3 pháo đội, mỗi pháo đội có 4 khẩu (tổng cộng 36 khẩu). Trên thực tế VM có tất cả là 144 khẩu pháo chưa kể ít nhất 30 khẩu 75 ly không giật, 36 cao xạ hạng nặng và trong những ngày cuối khoảng từ 12-16 dàn hỏa tiễn Katyusha 6 nòng.
Pháo binh Pháp ước lượng địch bắn 103,000 quả 75 ly hay lớn hơn, tổng cộng Pháp bắn 93,000 quả (13). Việt Minh có hỏa lực gấp ba lần Pháp, nhưng Pháp có không quân và 10 xe tăng như vậy theo Bernard Fall nếu nói Pháp thua ĐBP vì hỏa lực địch quá mạnh hơn thì không chính xác lắm, sự không cân bằng hỏa lực của hai phía không phải là quá đáng (tác giả muốn nói VM không quá mạnh hơn Pháp về hỏa lực)
Ngoài ra Pháp thua về mặt trận tiếp tế, họ bất lực ngăn cản dòng thác vận chuyển, tiếp viện của VM tới thung lũng, VM có tổng cộng 600 xe Motolova 2 tấn rưỡi chỉ đi được trên đường khá tốt và qua phà, nhưng thật ra nhờ xe đạp thồ (200 ký). Pháp không đánh phá được công cuộc tiếp tế địch vì ít máy bay và bom đạn, năm trước không quân Viễn đông của Mỹ cũng thất bại trong ngăn chận tiếp liệu của Trung cộng, Bắc Hàn mặc dù dội bom cả năm trời.
Ngoài ra trong đồn lũy ĐBP có đã có mấy ngàn người bỏ trốn gồm lính Thái, VN, Bắc Phi. Người Pháp và Mỹ đánh giá thấp cao xạ phòng không địch, tại Triều tiên Mỹ mất 816 máy bay vì cao xạ, 147 cái khác vì không chiến. Tại ĐBP Pháp mất 48 máy bay, 14 bị hủy dưới đất, 167 hư hại vì cao xạ, so với lực lượng không quân chưa tới 100 máy bay vận tải, thám thính và 75 chiến đấu cơ như vậy là thiệt hại nặng.
Phòng không là một yếu tố quan trọng đã khiến VM thắng trận ĐBP, nếu nói về một binh chủng được coi là cần thiết cho chiến thắng phải nói là pháo thủ cao xạ và cố vấn Trung cộng.
Những yếu tố lớn nhỏ về sự thất thủ ĐBP như kế hoạch phản công yếu đuối, pháo đài thiếu kiên cố, khinh địch về phòng không, việc lựa chọn trận đánh thì một dữ kiện đứng trên tất cả là một trận không yểm, oanh tạc ồ ạt dù không cứu vãn được tình hình Đông dương nhưng cũng cứu được ĐBP.
Các nhà quan sát Pháp về ĐBP đồng ý như vậy. Tướng Ély thay Navarre, ông là Tướng Pháp thân Mỹ nhất cho biết hồi đó không quân Pháp quá yếu trong trong thời điểm nguy kịch đó.
Nếu hồi đó tôi đã là Tư lệnh, có thể tôi không quyết định như Tướng Navarre (đóng tại ĐBP) nhưng nay sẽ không biết những gì sẩy ra cho Lào, BắcViệt…ngoài ra nếu một cơ hội bất ngờ có thể đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến, ĐBP không sụp đổ – nếu Mỹ oanh tạc giải vây ĐBP – như thế có thể ngày nay người ta lại cho là Navarre thiên tài người đã lựa trận đánh này và những người hồi đó đã kết án ông nay sẽ lại cố khoe đã đóng góp với ông trong chiến dịch điều hành” (14)
Tác giả nói những quan điểm trên cho ta hai vấn đề:
1-Tại sao chính phủ Pháp không cung cấp cho Pháp tại Đông dương một lực lượng không quân đầy đủ.
2- Tại sao Mỹ đã biết rõ tình trạng nguy hiểm nhưng lại cung cấp cho Pháp một không lực thiếu thốn?
Pháp thiếu phi công và những oanh tạc cơ hạng nặng.
Frédéric Dupont, Bộ trưởng các nước Liên Kết Đông Dương (Việt, Mên, Lào) năm 1954 nói thiếu oanh tạc cơ hạng nặng đưa tới thất thủ ĐBP, Pháp thiếu những phi trường lớn để huấn luyện và thiếu bảo trì. Charles Lauzin Tướng tư lệnh không quân Pháp tại Viễn đông trong thời gian trận ĐBP nói: ông đã báo cáo Chính phủ về việc thiếu thốn máy bay tại Đông dương khi ông nhậm chức ngày 30-6-1953 và quốc hội chi một ngân khoản khiêm tốn 18.4 triệu để đóng máy bay trong tài khóa 1953-1954. Thê chiến thứ hai Pháp bại trận vì không quân yếu.
Chassin, Tướng tiền nhiệm của Lauzin báo cáo ngày 14-6-1953 nói về khuyết điểm các Tướng Tư lệnh Đông dương không biết sử dụng không quân. Cũng như năm 1940 Pháp không biết sử dụng xe tăng và năm 1954 không biết sử dụng không quân. Đó là một phần đáng kể lý do khiến ĐBP thất thủ.
Nhưng số phi cơ chưa tới 100 cái thì dù sử dụng hoặc dàn trận ra sao cũng không thay đổi tình hình Đông dương hay cứu vãn tình thề ĐBP. Nếu so với cuộc chiến Triều tiên 1950-1953, Không quân Viễn đông Mỹ có 1,536 máy bay của Mỹ và đồng minh (đa số của Mỹ). So với giữa 1966 tại VNCH, Mỹ có 1,700 trực thăng Mỹ phần nhiều có võ trang, 700 vận tải thám thính, 1,400 máy bay chiến đấu của Không quân và Hải quân và 400 máy bay VNCH, thêm vào đó khỏang 90 B-52 yểm trợ miền nam VN.
Sau khi Trung hoa mất, Mỹ vội tìm đồng minh kể cả thực dân Pháp ở Đông dương và thực dân Anh ở Mã lai để lập phòng tuyến ngăn CS. Người Mỹ giúp Pháp trong cuộc chiến chống CS bằng tiền, vũ khí, tiếp liệu, cố vấn nhưng chỉ giúp một ít máy bay chiến đấu. Năm 1954 một trăm cái máy bay không thể cứu quân Pháp tại ĐBP.
Ngoài ra trong phần Lời nói đầu (15) tác giả nói trái với Hành pháp Mỹ có thể đưa quân vô giới hạn ra ngoại quốc trong một cuộc chiến không tuyên chiến tại hải ngoại nhưng Pháp lại bị giới hạn. Năm 1950 Quốc hội Pháp ra tu chính án Luật Ngân sách hạn chế nhập ngũ trong nước nên, sự việc này đã giới hạn rất nhiều việc đưa quân sang Đông dương. Khi Navarre giữ chức Tư lệnh giữa năm 1953, ông yêu cầu gửi thêm 12 tiểu đoàn và nhiều đơn vị yểm trợ cùng với 750 sĩ quan và 2,550 hạ sĩ quan cho các đơn vị thiếu thốn, ông chỉ nhận được 8 tiểu đoàn, 320 sĩ quan và 200 hạ sĩ quan. Thực ra tăng cường chỉ là gửi trước để thay thế sự thiệt hại trong năm 1953. Trong khi VM đã lập được nhiều đơn vị chính qui, Pháp gập khó khăn về thiếu thốn quân số và đó là một trong những nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ ĐBP cũng như Đông dương.
Ngoài ra trong cuốn sách nổi tiếng của Bernard Fall Đường Phố Buồn Thiu ông cũng nói về nguyên do ĐBP thất thủ tại chương 12, Why Dien Bien Phu? (16). Tác giả trích dẫn nhận xét của Tướng Castroux, Chủ tịch Ủy ban điều tra ĐBP thất thủ, ông này chỉ trích Navarre sai lầm như sau:
“Không có vị trí nào có thể đóng đồn ngăn cản (VM tiến về Thượng Lào) tại một xứ không có đường giao thông như Âu châu mà chỉ là những đường mòn và đưởng sông ngòi (ý nói địch có nhiều đường để đi).
Khi ĐBP bị một lực lượng lớn tấn công, nó không bảo vệ được Lào, cũng không thể từ đó đánh ra ngoài mà nó chỉ lo chống lại lực lượng đông đảo của địch”
Theo tác giả các nhà chính trị ở Pháp không có lỗi lầm mà trách nhiệm thuộc về Navarre, Cogny, de Castries trong đó de Castries ít lỗi lầm nhất.
Các công sự phòng thủ không được đúc bê tông mà chỉ làm bằng gỗ, bao cát không chịu nổi đạn pháo. Tác giả nói khi Võ Nguyên Giáp chiếm được hai tiền đồn phía bắc Beatrice và Gabrielle là đã kiểm soát được hai cao điểm (cao nhất lòng chảo) ĐBP coi như mất.
Bernard Fall tóm lược những sai lầm của ĐBP:
1- Trận địa quá xa các trung tâm hậu cần Pháp (như Hà nội)
2- Khinh địch, đánh giá thấp VM mọi phương diện
3- Bố trí sai, pháo binh tại cứ điểm phía nam Isabelle cách cứ điển trung ương 7 km không yểm trợ được hai tiền đồn Béatrice và Gabrielle (phía bắc) vì quá xa
Fredrik Logevall . Ông là giáo sư lịch sử. Về nguyên nhân sụp đổ ĐBP, tác giả này nói (17) nếu cấp chỉ huy Pháp hoạch định khác có thể khiến ĐBP không sụp đổ chăng? Có thể đưa tới chiến thắng thay đổi cuộc chiến?
Navarre sai lầm cho đóng quân bên ngoài Châu thổ (sông Hồng)? coi ĐBP là địa điểm tốt nhất để ngăn VM tới Luang Prabang , Kinh đô Lào mà Pháp phải bảo vệ: Ông muốn lập lại chiến thắng ở Na San năm trước với một cuộc chiến có tầm vóc lớn hơn, ông nghĩ rằng có thể dụ cho địch kéo đến thật đông.
Ông nói đúng ra Navarre phải bỏ Thượng Lào để giành lực lượng cho châu thổ sông Hồng quan trọng hơn và buộc Tướng Giáp tấn công tại đó, ở đây Navarre dễ tiếp tế hơn tại ĐBP và nếu Giáp theo kế hoạch đầu tiên tấn công ngày 25-1 có thể lắm, VM sẽ thua lớn. Nhiều nhà quân sự, cả người Mỹ sau ngày ĐBP thất thủ 7-5 chỉ trích nặng nề quyết định của Navarre cho đóng quân tại môt nơi chỉ tiếp tế tăng viện bằng cầu không vận mà tưởng là sẽ thắng lớn.
Rồi Pháp mới thấy địch mạnh hơn, đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, Pháp có thể thay đổi chiến thuật nhất là Pháp thiếu máy bay, phi hành đoàn. Pháp sai lầm đánh giá cao khả năng của không quân có thể oanh tạc đường tiếp tế VM nhưng họ vẫn mang được tiếp liệu vào, đúng ra phải tập trung oanh tạc lòng chảo ĐBP.
Logevall nói việc bố trí (layout) tại lòng chảo không hoàn hảo lắm, các căn cứ kháng cự được bố trí không hữu hiệu. Isabelle (phía nam) quá xa không thể pháo yểm trợ khu Trung tâm hữu hiệu. Gabrielle và Béatrice (phía bắc) yếu không đủ bảo vệ phi trường. Các công sự yếu không chịu đựng nổi pháo kích của địch hoặc khi mưa bị ngập nước, pháo đài công sự mỏng manh nên dễ bị phá hủy.
Ngoài ra Tư lệnh và phó Tư lệnh (Cogny) chia rẽ nhau ảnh hưởng trận đánh. Tướng Giáp đạt thắng lợi cho thấy chiến thuật xuất sắc trong sử dụng phòng không và pháo binh cũng như xử dụng chiến thuật, kỹ thuật bao vây thời Thế chiến thứ nhất.
Hậu quả cuộc tấn công ba ngọn đồi phía bắc (Bèatrice, Gabrielle và Anne Marie) đã làm lính Thái tinh mất thần bỏ trốn, sự kiện đã được các nhà quân sử khen ngợi Tướng Giáp và đã cho thấy chung cuộc ra sao. Dù sao người Pháp đúng lý phải giữ được ĐBP nếu không giữ được mãi thì cũng tới mùa mưa và mùa thu.
Cho dù Liên hiệp Pháp giữ được ĐBP, gây thiệt hại nặng cho các sư đoàn chủ lực VM, cho dù làm mất trinh thần VM khắp Đông dương nhưng cán cân sức mạnh vẫn không thuận lợi cho Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam còn yếu, tại nước Pháp người dân cho rằng cuộc chiến không còn giá trị khi hằng năm 600 sĩ quan bị giết trong một năm tương đương với số tốt nghiệp tại trường võ bị Saint-Cyr
Ted Morgan
Ông là ký giả đã được giải Pulitzer, trong cuốn sách dầy 722 trang viết về ĐBP mới xuất bản gần đây (18) tác giả nói
Tại Bắc kinh, Mao theo dõi trận Năm ngọn đồi (khu Trung ương ĐBP) cũng như Eisenhower theo dõi tại Washington, Mao tin rằng thắng ĐBP sẽ củng cố địa vị của Trung cộng tại Genève. Mao can thiệp từ tháng 9-1953 khi Hồ Chí Minh bác bỏ kế hoạch của Giáp tập trung quân tại châu thổ sông Hồng. Tướng Vi Quốc Thanh được cử sang Đông dương trong chức vụ trưởng đoàn cố vấn Trung cộng làm việc với Tướng Giáp.
Ông Tướng Tầu này đưa cho Hồ chí Minh một bản sao kế hoạch Navarre mà tình báo Trung Cộng lấy được, họ có kế hoạch chia cắt, bao vây, tiêu diệt từng tiểu đoàn. Tháng 3-1954 Chu Ân Lai điện cho Tướng Vi nói cố đánh thắng vài trận. Tháng 3 và 4 năm 1954 Mao tăng viện trợ cho VM 4 tiểu đoàn phòng không, VM được huấn luyện tại Trung cộng với súng cao xạ 37 ly và đã được đưa tới ĐBP. Những đơn vị VM cũng được huấn luyện bắn sẻ. Ngày 3-4 khi trận Năm ngọn đồi chưa ngả ngũ, Mao cho huấn luyện thêm hai sư đoàn pháo và hai tiểu đoàn công binh cho VM, Mao khuyên Hà nội có thể tấn công mùa đông 1954 hay mùa xuân 1955.
Về việc cố vấn và viện trợ Mao có ưu thế hơn Mỹ nhiều, ông ta không phải vận động quốc hội như Mỹ, Mao thảo lệnh và được thi hành ngay, Việt minh không cãi lại ý kiến của Trung cộng trong khi Pháp luôn than phiền Mỹ can dự vào.
Trong phần Kết luận cuốn sách, Ted Morgan đề cập nhiều tới Ủy ban điều tra của Chính phủ Pháp về ĐBP thất thủ (19)
Nguyên do tại sao? đó là câu hỏi mà Ủy ban điều tra năm 1955 qua 22 phiên họp, nghe nhiều nhân chứng. Tướng Castroux và hai Tướng khác chủ tọa, một Đô đốc, một Viên chức dân sự đã chuyển bản tường trình lên Tướng Koenig, Bộ trưởng quốc phòng vào ngày 3-12-1955. Bản báo cáo này đã được giữ bi mật cho tới năm 1969.
Nói gọn lại không phải là một sai lầm mà cả một lô sai lầm. Bộ Tổng tham mưu Pháp chấp thuận kế hoạch của Navarre. Nhưng ông ta không nắm được một yếu tố quan trọng về viện trợ ồ ạt của Trung Cộng cho Việt Minh. Ông chỉ tưởng họ chỉ là đám du kích rách rưới. Khi không nhận được tăng viện mà ông đòi đúng ra ông phải thay đổi kế hoạch.
Thiếu chỉ thị của chính phủ liên quan đến việc bảo vệ Lào, ông nghe lời Tổng Cao ủy Dejean nói cần phải bảo vệ Lào. Bản tường trình của Castroux chỉ trích Navarre sai lầm không biết rằng chiến thuật của căn cứ ĐBP đã bị thất thủ trước đại quân VM. Navarre sai lầm khi cho là căn cứ có thể kháng cự được khi chỉ liên lạc, tiếp tế được bằng không quân. Trong mọi trường hợp, căn cứ không thể ngăn chận VM vào Lào được, rừng núi bao quanh thuận tiện cho địch nhiều.
Căn cứ nằm cách xa phi trường (BV) 185 dặm bất lợi, đúng ra ông ta phải bỏ căn cứ này trễ nhất là ngày 10 tháng 12-1953, ông bỏ lỡ cơ hội khi còn thì giờ vì không đánh giá đúng khả năng tiếp vận của VM và sự thuận lợi mà địa hình đã cho họ. Tướng Giáp nói cuối tháng 12 chúng tôi đã bao vây khu lòng chảo, nếu di tản sẽ bị thiệt hại nặng.
Tướng Cogny, Tư lệnh phó cũng chia xẻ trách nhiệm về sự thất bại. Bản tường trình cho biết Navarre không có kinh nghiệm cá nhân về chiến tranh trong rừng rậm, không biết rằng Cogny ngưởi hiểu biết nhiều có thể báo cho ông biết sự nguy hiểm. Chính phủ Pháp sai lầm khi chọn một ông Tư lệnh không có kinh nghiệm tại một chiến trường xa lạ.
Navarre được coi như đã đi qua ba giai đoạn:
-Tư tin, tìm một trận đánh
-Lo sợ kết cục nhưng không chịu thay đổi tình thế bằng di tản hay thay đổi chiến thuật.
-Ông lại mở chiến dịch lớn Atlante tại Trung Việt phân tán lực lượng.
Ngoài ra nếu can thiệp bằng không lực, oanh kích ngày này sang ngày khác có thể cứu ĐBP nhưng Tư lệnh không có lực lượng không quân mạnh.
Tướng Cogny tiết lộ tin tức cho giới chức điều tra để nói ý riêng của mình. Cogny tiếp xúc hằng ngày với Castries nhưng không cho thay đổi chiến thuật phòng thủ thụ động của Castries, cũng không cảnh báo Castries về cách mà VM dấu đại bác trong hang núi. Castries không thay đổi phòng thủ căn cứ, ông thụ động giao cho Đại tá Langlais quyết định mọi việc chiến đấu mà đúng ra ông phải giữ quyền chỉ huy.
Howard R. Simpson- tác giả cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên, trong phần dẫn nhập (20) ông trình bầy những nguyên do thất bại ĐBP và cũng nói tới sai lầm của Mỹ sau này.
Simpson nói ĐBP không phải là trận chiến lớn theo qui ước nhưng là trận chiến quyết định trong thế giới nhỏ của sự đụng độ chính trị quân sự quốc tế theo sau Thế chiến thứ hai. Nó là một thế trận của sự can đảm, nhầm lẫn, gan dạ, thất bại. Những sai lầm lớn lao của thượng cấp đã quyết định vận mạng của căn cứ từ lâu trước trận tấn công cuối cùng. Không nhìn thấy sai lầm chiến thuật bị sương mù của trận đánh che phủ đưa tới thất bại sau cùng. Trận chiến duy nhất này thay đổi bộ mặt châu Á và thể hiện một sự ngừng nghỉ trước trận chiến đắt giá mà quân đội Mỹ phải chiến đấu trong rừng ruộng ở miền nam VN. Năm 1992 Simpson nói chuyện với Bùi tín trong một quán cà phê ở Paris, người Mỹ can thiệp vào VN (1965) nhưng các nhà kế hoạch, chiến lược gia không biết tới kinh nghiệm của Pháp. Tinh thần team work và triết lý can-do tự tin làm mờ nhạt bài học lịch sử. Khê sanh tháng giêng 1968, 40,000 quân BV bao vây 6,000 lính TQLC Mỹ hai tháng rưỡi, gần giống ĐBP, Mỹ cho B-52, pháo binh oanh kích, TQLC phá vòng vây, BV chết 10,000 người, Mỹ 500 người.
Theo tác giả những khuyết điểm của Pháp và sau này của Mỹ nhân bàn về trận ĐBP.
1-Đánh giá thấp những đơn vị du kích chiến của địch là lỗi lầm lớn. Người Pháp tưởng phản pháo và không quân sẽ làm câm họng pháo binh địch nhưng thảm bại. Ngoài ra đánh giá thấp khả năng tiếp liệu tinh thần kiên cường của địch và chiến thuật chiến lược các tướng lãnh địch. Thập niên 60, 70 người Mỹ cũng khinh địch như Pháp trước đây.
2- Một mặt trận phụ thuộc vào tiếp liệu, tiếp viện hàng không sẽ thất bại trong cuộc chiến tranh du kích. Bộ chỉ huy Pháp đã xây pháo đài tại khu rừng núi chỉ tiếp tế được bằng hàng không, mọi tiếp tế chỉ bằng thả dù. Pháo binh và cao xạ VM sẽ chặn đứng cuộc tiếp tế, tại rừng núi ĐBP phi công khó quan sát nên oanh kích khó chính xác…
Sự thật Không quân Pháp tại Đông dương rất giới hạn so với Không quân Mỹ sau này thập niên 1960.
Trong cuộc chiến thắng thua tại làng xã miền nam VN mà sự hợp tác, trung thành là cơ bản của chiến thắng. Bom đạn, oanh kích tự do giết hại thường dân khiến có lợi cho VC, mặc dù Mỹ có ưu thế không quân nhưng đường mòn Hồ chí Minh vẫn đưa được vũ khí, chiến xa vào miền nam.
3-Trận đánh ĐBP là sự chứng tỏ du kích chiến uyển chuyển của địch và khả năng thay đổi diễn trình cho thích hợp với một tình trạng chiến thuật đặc biệt. Đa số các sĩ quan Bộ tham mưu hoạch định kế hoạch ĐBP vẫn cho VM cơ bản là du kích, đạo quân nhà quê. Họ không biết rằng địch đã tổ chức thành những sư đoàn, được trang bị đầy đủ có thể chiến đấu trong trận đánh đã được hoạch định rõ. Những sư đoàn của Tướng Giáp được coi như chính qui nhưng ông coi cuộc chiến tranh nhân dân là sự kết hợp của chính qui, địa phương quân, du kích để hoàn thành mục tiêu chung.
Tác giả gặp Tướng Giáp năm 1991 tại Sài Gòn, ông ta nói chiến tranh nhân dân gồm cả những đơn vị nhỏ cho tới toàn thể quân đội: “chiến sĩ du kích giỏi có thể biến thành quân đội chính qui”
Tướng Giáp cho quân lính xử dụng hàng ngàn cuốc xẻng đào hào tới gần căn cứ địch .
4-Ảnh hưởng tệ hại của thời tiết, của môi trường xung quanh như sốt rét, ngã nước, nóng bức… của rừng nhiệt đới khiến nhiều binh lính Pháp bị suy yếu mất tinh thần.
5- Tại thế giới thứ ba, nếu một nước bị nhiều ảnh hưởng Tây phương có thể gây tai hại quân đội quốc gia (bản xứ). Quân đôi viễn chinh năm 1950 chiến đấu rất hiệu nghiệm nhưng từ 1953 đã lỗi thời, đã bị mệt mỏi rạn nứt do những đường hướng mới của cuộc chiến. Luồng gió chính trị đổi thay gây trở ngại tuyển quân. VM tuyên truyền quân Liên hiệp Pháp, họ được biết tại đất nước (Pháp) có chống đối chính sách quân sự.
Mặc dù đạo quân thực dân là quá khứ nhưng di sản của nó vẫn còn, quân đội VNCH không bao giờ phủ nhận được cái gốc của nó là quân đội thuộc địa do người Âu huấn luyện. Nay Mỹ thay Pháp (1965) cái mầu thực dân vẫn còn đã cho Việt cộng đề tài tuyên truyền Quân đội miền nam VN chỉ là quân đội tay sai. Đối với chúng ta “thực dân” vẫn là nhãn hiệu lịch sử, đối với nhiều nước trong thế giới thứ ba nó vẫn là một biểu tượng xấu.
6- Hiệu quả và tinh thần của quân đội có liên hệ trực tiếp với sự yểm trợ của chính phủ và sự ủng hộ của người dân của đất nước đang tham gia cuộc chiến.
Sự cầm cự kéo dài chống cự trước một đạo quân đông và hỏa lực mạnh hơn tại ĐBP là một hiện tượng, họ biết là chiến đấu một cuộc chiến mà trong nước chống đối.
Nước Pháp đang tìm giải pháp chính trị cho cuộc chiến và sự ủng hộ của chính phủ cho cuộc chiến đã tụt giảm. Ngoài ra quân đội VM xung kích biết rằng cả nước động viên tinh thần phía sau họ trong cuộc chiến nhân dân giành độc lập. Họ tiến công ĐBP và sẵn sàng chết cho lý tưởng, những khẩu hiệu tuyên truyền xác định mục đích họ chiến đấu.
Giữa thập niên 60, lính Mỹ không biết mục đích chiến đấu, bị chống đối tại trong nước. Quân đội mà không biết mục đích chiến đấu là điều rất bất lợi, kẻ địch tin vào mục đích nên họ chịu gian khổ, hy sinh nhiều nhân mạng cho mục tiêu.
Trong phần kết luận (21) tác giả nói năm 1991 ông gặp và phỏng vấn Tướng Giáp ở Sài gòn: những người tham dự trận đều cho rằng đây là bài học ĐBP, đừng coi thường kẻ địch du kích chiến, nên cẩn thận khi chỉ phụ thuộc vào không lực, nên để ý môi trường độc hại xung quanh, tránh thái độ thực dân và biết rằng mọi cuộc viễn chinh phải có chính phủ và người dân ủng hộ, nay cũng quan trọng như xưa
Stanley Karnow. Ký giả, sử gia Mỹ tác giả cuốn sách best seller Vietnam A History. Trong phần đề tựa cho cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên nêu trên của Howard Simpson, Karnow nói.
ĐBP mà Việt minh Cộng sản đè bẹp quân Pháp tại Đông dương xếp trong những trận Agincourt, Waterloo và Gettyburg như một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử. Nó đánh dấu sự sụp đổ của đế quốc Pháp tại Á châu và trong khi chưa có ai thấy trước nó mở đường cho Mỹ vào Đông dương.
Tác giả nói: Simpson cho thấy Pháp không thua tại ĐBP, cuộc chiến với VM kéo dài 8 năm và người dân quá mệt mỏi với cuộc chiến không kết thúc, nó đã đầu độc xã hội và chia rẽ chính phủ.
Tướng Navarre không thích hợp với vai trò, không chú trọng tình báo vì nó không giống những kiến thức mà ông đã học ở võ bị Pháp, hành động theo thành kiến, không chịu nhìn nhận khả năng địch. Tướng Giáp có khả năng tập trung hỏa lực cần thiết nện giáng xuống doanh trại ĐBP, đúng đó là Giáp đã làm.
Giáp đã chuẩn bị nhiều tháng, như những đàn kiến, VM thồ bằng xe đạp qua những khu rừng rậm để chở vũ khí đạn dược lương thực tới địa bàn. Với lòng nhiệt tâm vô bờ họ đã kéo đại bác lên triền núi nhắm xuống người Pháp, những kẻ điên rồ đóng trong khu thung lũng theo chủ trương trên đường bảo vệ Lào.
Hai phía nỗ lực trước Hội nghị Genève và hậu quả của ngày 7-5 (ĐBP thất thủ), Smith, thứ trưởng ngoại giao Mỹ nói nói “Người ta không thể thắng trên bàn Hội nghị nếu thua trận”
Pháp có thể vẫn tiếp tục chiến tranh nếu người dân không phản đối và đòi hòa bình, CSVN chịu chia đôi đất nước vì Nga và Trung cộng muốn vậy. Trong cuộc chiếm Đông dương lần thứ hai Johnson, Westmoreland tưởng lầm Khe sanh đầu năm1968, thực ra CS dụ cho Mỹ tới đó để đánh Tết Mậu thân, họ biết không thể trực diện đọ sức với Mỹ.
Tướng Giáp theo đuổi cuộc chiến tranh làm hao mòn ý chí chiến đấu của người Mỹ. Điều quan tâm chính của ông ta là chiến thắng chứ không phải tổn thất. Trong cuộc nói chuyện tại Hà Nội, Karnow hỏi tướng Giáp “Các ông chiến đấu chống Mỹ được bao lâu?” thì Giáp trả lời không do dự “Hai mươi năm nữa, có thể một trăm năm, cho tới khi nào chiến thắng bất kể tổn thất là bao nhiêu”.
Bởi thế Mỹ cũng như Pháp đương đầu với một kẻ thù mà cứu cánh của họ là thiêng liêng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh ghê rợn để đạt mục đích và Mỹ cần học bài này kẻo quá trễ.
Neil Sheehan- Đặc phái viên của United Press International (UPI) tại Việt Nam từ tháng 4-1962 tới tháng 4-1964và New York Times, là tác giả cuốn A Bright Shining Lie.
Trong phần đề tựa cuốn Trận Điện Biên Phủ của Jules Roy (22) Sheehan dẫn lời một ký giả Úc nói (7/1963) Tướng lãnh Mỹ tại miền nam VN cũng lạc quan như Pháp trước đây.
Châu thổ Cửu long quan trọng nhất về kinh tế miền nam và là nơi dân cư đông đúc, chính phủ Sài gòn cũng đang sụp đổ dưới cuộc tấn công của du kích Việt Cộng như Việt Minh tấn công Châu thổ BV năm 1952.
Năm 1963, chín năm sau ĐBP, các Tướng lãnh, các nhà ngoại giao Mỹ cũng sẽ chịu chung số phận người Pháp trước đây. Tại Mỹ cũng như tại Pháp trước đây, người dân không tha thiết với cuộc chiến tại một nước xa xối Á châu không liên quan trực tiếp tới họ.
Sheehan nói theo quan điểm Jules Roy thất bại không phải vì thiếu người, súng đạn nhưng là những lý do vô hình như sự kiêu căng của các nhà lãnh đạo quân sự, chính trị Pháp, họ tự lừa dối và tinh thần yếu đuối lại khinh địch. Roy viết Navarre tin tưởng theo lý thuyết quân sự Tây phương cho rằng Việt Minh thiếu phương tiện tiếp vận, chuyên chở để đưa quân tới, đại bác và không quân Pháp sẽ trấn áp pháo binh VM . Ông ta tin khả năng vũ khí của mình sẽ giết hại VM từ trên đồi xuống và có thể giữ hai phi trường. ĐBP chấm dứt sự tìm kiếm một trận theo lối cổ điển đã sắp đặt mà Pháp dùng hỏa lực và kỹ thuật mới để nghiền nát đối phương CS.
Navarre và Bộ tham mưu đã đánh giá thấp mưu trí và phương tiện của địch. Họ không nhận thức được là các lý thuyết quân sự Tây phương không những thất bại không thắng được chiến lược chính trị quân sự của địch nhưng còn đưa tới thất bại mà thực ra là thảm bại. Sheehan nói thời gian tôi ở VN (1962-1964) các nhà ngoại giao và quân sự Mỹ biết rất ít về kinh nghiệm của người Pháp, nếu chịu khó học hỏi có thể thấy những yếu điểm của Pháp để rút lui trước khi quá trễ.
Theo người Mỹ thì Pháp chiến đấu dở, thua là đúng. Họ chỉ nói Pháp giữ chế độ thuộc địa lỗi thời nên đã thua. Người Mỹ biết chiến đấu vì đã đánh bại Đức, Nhật và Trung cộng tại Triều tiên, họ chiến đấu cho dân chủ sẽ thắng, CS sẽ thua. Mỹ không biết rằng người Pháp chiến đấu gan dạ hơn quân đội QGVN mà họ huấn luyện, người Mỹ không biết là can đảm không đủ thắng VM gian giảo, có phương sách, sau này là VC. Giống như Pháp, Mỹ tin tưởng vào lý thuyết quân sự Tây phương, chiến tranh qui ước, tin tưởng vào tiền bạc, súng đạn, cố vấn, máy bay, xe tăng, đại bác…Jules Roy kể lại Navarre không tin vào báo cáo của tình báo ở Hà Nội, Tướng Cogny đã cho biết VM tập trung bốn, năm sư đoàn quanh ĐBP, một lực lượng dữ tợn đe dọa căn cứ, toán làm việc của Cogny bị kết án là bi quan sai lầm để phóng đại sự quan trọng. Người Pháp cho việc VM tập trung bốn sư đoàn tại ĐBP là một dự án không tưởng, họ tính toán theo lý thuyết quân sự Tây phương cho là địch không có phương tiện chuyên chở cung cấp cho một đạo quân như vậy. Jules Roy cho rằng Tướng Navarre tin chỉ phải đối đầu với một sư đoàn địch, không đáng sợ. Đáng tiếc thay, họ tập trung bốn sư đoàn tại ĐBP, đã dùng những phương tiện không theo qui ước để tiếp tế và họ đã tràn ngập doanh trại Pháp.
Tướng Paul Harkins, Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ đầu tiên tại VN cũng như Navarre không tin báo cáo đã cho biết VC lập những tiểu đoàn lưu động với súng Mỹ mà họ lấy được, ông tin tưởng sẽ thắng CS.
Jules Roy nói không ai tin vào sự chuyển vận, tiếp tế của VM, không ai tin được sự khôn ngoan của họ, theo ông đúng ra Navarre phải đánh giá đúng tướng Giáp mà thực ra ông ta coi Giáp chỉ là người chẳng học trường quân sự nào cả. Các tướng Mỹ khinh địch, coi VC chỉ là bọn nhà quê dốt nát, Sheehan cho biết một tướng Mỹ nói người VN không khôn ngoan, họ không có truyền thống võ bị như Mỹ.
Nhiều người Mỹ tin vào sự di động và sự kiểm soát, ảnh hưởng của họ đối với dân quê, có nhiều phương tiện hơn VC.
Cuối cùng chính phủ Pháp quyết định bỏ Đông dương, 9 năm sau khi can thiệp (1973), người Mỹ không còn muốn nghe nói tới chiến tranh VN.
Kết luận
Xin điểm qua các nhận định trên của giới chức quân sự cũng như các nhà nghiên cứu. Trước hết là giới quân sự.
Navarre người chịu trách nhiệm trận ĐBP mặc dù có đưa ra nhiều lý lẽ chính đáng để biện minh cho trận đánh nhưng không hề thấy ông tự nhận sai lầm của mình dù lớn nhỏ. Ông ta đổ lỗi cho chính phủ đã không cung cấp đủ lực lượng, phương tiện khiến cho quân Pháp tại Đông dương yếu kém nhiều so với VM. Navarre nói Không quân Pháp thiếu thốn, không được tăng viện hoặc gửi tới quá trễ, Trung cộng gia tăng viện trợ ồ ạt khi trận đánh tiếp diễn là một nguyên nhân lớn đưa tới thất thủ.
Vị Tư lệnh đã biết là không quân Pháp yếu quá, thiếu máy bay, phi công nhưng lại cho đóng quân tại một vùng rừng núi hiểm trở, xa xăm chỉ tiếp tế được bằng hàng không thì đó là một lỗi lầm tai hại. Navarre thiếu tin tức tình báo, khinh địch nên đã đem quân vào miệng cọp.
Jules Roy, sĩ quan cao cấp Không quân Pháp đã trích dẫn nhiều danh ngôn cho thấy nhiều khuyết điểm của kế hoạch Navarre trong trận đánh lịch sử này. Tuy nhiên, tư tưởng phản chiến, khuynh tả của Roy đã khiến cho quan điểm của ông ta không còn vô tư khách quan khi ngày càng kết án gay gắt vị Tư lệnh này. Không những kết án Navarre, Roy chê trách luôn cả Chính phủ, người dân Pháp khiến nhận định của ông ta đã trở thành cực đoan, tự cao, kiêu ngạo. Lại nữa, chín năm sau trận đánh, Jules Roy đi thăm ĐBP và hết lời ca ngợi đối phương khiến cho mọi ý kiến, nhận định của ông trở thành khuynh tả, một chiều.
Quân sử 4 của Bộ tổng tham mưu VNCH cung cấp thêm một số chi tiết về khuyết điểm của Pháp như việc khai quang lòng chảo, bố phòng các cứ điểm, khinh địch, không ước đoán đúng lực lượng, khả năng tác chiến, vận chuyển tiếp tế của VM. Ngoài ra Navarre lại mở chiến dịch phân tán chủ lực Pháp không cứu vãn ĐBP đắc lực.
Qua phần ý kiến các nhà nghiên cứu, Bernard Fall tác giả nổi tiếng về chiến tranh Đông dương nêu lên nhiều nhận định sâu sắc tuy nhiên ông cũng có vài điểm mâu thuẫn. Tác giả nói Pháp ước lượng VM pháo 103,000 quả nhưng theo Navarre họ đã bắn xuống lòng chảo trên 200,000 quả đạn pháo lớn (23). Bernard Fall nói hỏa lực địch không quá mạnh hơn Pháp, VM có hỏa lực mạnh gấp ba Pháp nhưng Pháp có không quân và 10 xe tăng và ông cũng nói không quân Pháp quá yếu, lực lượng cao xạ địch quá mạnh như thế là đã công nhận hỏa lực địch hơn xa Pháp.
Ngoài ra Bernard Fall cũng đề cập một điểm quan trọng thể hiện sự khó khăn vô cùng của quân đội viễn chinh Pháp: năm 1950 Quốc hội Pháp ra tu chính án Luật Ngân sách hạn chế nhập ngũ trong nước nên đã giới hạn rất nhiều việc đưa quân sang Đông dương, đó là lý do tại sao quân lưu động của VM gấp ba lần Pháp. Sau cùng Bernard Fall nhận định nguyên do trên hết, lớn hơn hết đưa tới thất thủ ĐBP vì Mỹ đã không thực hiện được kế hoạch oanh tạc ồ ạt cứu nguy mặt trận vào giờ chót.
Giáo sư Logevall bằng giọng ôn hòa chỉ trích sự sai lầm của Navarre khi cho đóng quân tại ĐBP để bảo vệ Lào, đáng lẽ ông phải giành lực lượng để bảo vệ châu thổ sông Hồng quan trọng hơn. Người Pháp sai lầm đánh giá cao khả năng không quân có thể oanh tạc đường tiếp tế của VM, thực ra họ đã bất lực ngăn chận đường tiếp liệu của địch. Ông cho rằng đúng ra phải tập trung oanh tạc tại khu lòng chảo, nói chung tác giả nhìn nhận cán quân quân sự vẫn nghiêng về VM trên toàn cõi Đông dương cho dù Pháp giữ được ĐBP.
Tác giả Ted Morgan nêu một ý kiến riêng hữu lý, ông cho rằng việc Mao tăng viện trợ về phòng không và pháo binh cho VM là yếu tố quyết định cho trận đánh. Theo ông, Mao có ưu thế chính trị vì không phải đưa ra Quốc hội, trong khi Mỹ phải bàn thảo, quyền quyết định của chính phủ bị giới hạn.
Ted Morgan cho biết một số chi tiết quan trọng về nội dung bản báo cáo của Ủy ban điều tra nguyên do thất thủ ĐBP: Navarre thiếu tin tức tình báo về viện trợ của Trung Cộng cho Việt Minh, về lực lượng, hỏa lực địch, khả năng tiếp vận của địch, khinh địch và chủ quan. Chọn lựa căn cứ sai lầm ở chỗ chỉ có phương tiện liên lạc duy nhât bằng không vận, căn cứ không thể ngăn chận VM qua Lào như chủ trương.
Navarre đã không thay đổi kế hoạch, rút quân trước ngày 10-12-1953 khi không nhận được tăng viện từ Pháp, vả lại đồng thời ông cho mở chiến dịch lớn Atlante tại Trung Việt đã phân tán lực lượng khiến quân tổng trừ bị không còn.
Chính phủ Pháp cũng chịu trách nhiệm vì đã chọn một ông Tướng Tư lệnh không có kinh nghiệm tại chiến trường Đông Dương.
Tư lệnh phó Cogny cũng phải chia xẻ trách nhiệm về sự thất bại, ông đã không cho thay đổi chiến thuật phòng thủ của Castries, không cảnh báo Castries về cách mà VM giấu đại bác trong hang núi. Castries giao Đại tá Langlais quyết định mọi việc mà đúng ra ông phải giữ quyền chỉ huy.
Howard R. Simpson, người Mỹ tác giả cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên có nêu 6 điểm chính khuyết điểm của Pháp tại ĐBP và chiến trường Đông Dương, nó cũng là khuyết điểm của Mỹ sau này:
-Khinh địch, tưởng là không quân pháo binh sẽ trấn áp VM.
-Pháo đài tiếp tế bằng không quân sẽ thất bại vì pháo binh, cao xạ địch sẽ chận đứng mọi cuộc tiếp tế
-ĐBP là du kích chiến uyển chuyển, người Pháp cho VM chỉ là du kích thực ra họ đã tổ chức thành nhiều sư đoàn chính qui
-Ảnh hưởng tệ hại thời tiết, sốt rét, nóng bức sẽ khiến lính Pháp suy yếu mất tinh thần
-Tại một nước thuộc thế giới thứ ba, các đạo quân Tây phương trú đóng nhiều sẽ bi tuyên truyền là thực dân.
-Cuộc chiến cần được người dân trong nước mình ủng hộ. Quân Pháp, Mỹ bị người dân chống đối ảnh hưởng tới cuộc chiến.
Những nhận định về ĐBP do Simpson đề ra trong phần dẫn nhập như trên có tính tổng quát, mặc dù ông đã phỏng vấn nhiều người sống sót sau trận ĐBP nhưng nhận định của ông mơ hồ, không cụ thể và sâu sắc cho lắm.
Stanley Karnow, ký giả, sử gia người đề tựa sách của Simpson kể trên chỉ trích Navarre cho là một ông Tướng không thích hợp với chiến trường Đông Dương, không chú trọng về tình báo, đóng quân trong thung lũng là điên rồ. Tác giả ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường của VM, của Tướng Giáp, sẵn sàng hy sinh xương máu cho tới khi nào chiến thắng.
Tác giả không đề cập cụ thể mà chỉ ca tụng tinh thần chiến đấu mù quáng điên cuồng của VM, ca ngợi những kẻ coi mạng người dân rẻ như bèo.
Cuối cùng Neil Sheehan, đặc phái viên UPI tại VN 1962-64, trong phần đề tựa cuốn sách của Jules Roy nói Navarre và bộ tham mưu đã kiêu ngạo, khinh địch, cho rằng Việt Minh thiếu phương tiện vân chuyển để đưa quân đội, tiếp liệu tới ĐBP. Navarre tin tưởng vũ khí của mình sẽ tiêu diệt đối phương, đánh giá thấp mưu trí và phương tiện địch. Theo ông lý thuyết quân sự Tây phương không thắng được chiến lược chính trị quân sự của địch mà còn đưa tới thảm bại.
Navarre đã không tin vào báo cáo của Tướng Cogny tại Hà Nội, ông Tư lệnh phó này cho biết VM đã tập trung bốn hoặc năm sư đoàn quanh ĐBP, một lượng dữ dội đe dọa căn cứ. Navarre không tin và kết án Cogny bi quan, sai lầm, ông tưởng rằng VM chỉ có thể đem tới một sư đoàn. Ý kiến của Sheehan thiên về lý thuyết, có khuynh hướng chê bai Mỹ và Pháp tại Đông dương.
Ý kiến của giới quân sự và các nhà học giả như trên đã cùng chung quan điểm trước hết là qui trách nhiệm cho Navarre, người đã đưa kế hoạch lập căn cứ tại đây. Trận ĐBP diễn ra khi Navarre đã biết là VM ngày càng mạnh hơn Pháp, quân lưu động đông hơn gấp ba lần nên ông đã cho lập căn cứ tại đây nhử cho địch tới để giết một mẻ lớn, làm suy yếu địch. Đáng tiếc thay vì thiếu tình báo, vì không có kinh nghiệm chiến trường Đông Dương nên ông đã đưa quân vào tử địa để rồi ĐBP trở thành một thảm kịch cho quân Pháp.
Trên trang mạng Vietnam.net thượng tuần tháng 5-2014, nhân dịp 60 năm ĐBP, họ đăng một loạt bài của CSVN về trận đánh lịch sử này. Bài số 5, Ký ức Him Lam, Trận mở đầu ĐBP cho biết VM đã xử dụng 40 khẩu pháo từ 75 cho tới 120 ly giáng xuống tiền đồn Pháp 5 giờ chiều 13-3-1954. Nhiều ụ súng, chiến hào giao thông hào của Pháp bị phá, thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê dương số 3 và 3 sĩ quan khác bị trúng đạn chết ngay. Điện đài bị phá hủy nhưng họ cũng thú nhận các đồng đội VM bị hy sinh quá nhiều. Những dữ kiện trên cho thấy hỏa lực VM có khả năng áp đảo.
Bài số 8 mang tên 7 Tướng Pháp và 1 Điện Biên nói về quân số tỷ lệ giữa ta và địch là 3.3/1(hơn gấp 3), pháo 3.1/1, không quân Pháp có một phi đội 14 chiếc máy bay, VM không có chiến nào. Thực ra họ nói khiêm tốn, phòng không VM tối tân và rất mạnh chế ngự bầu trời ĐBP.
Tuy nhiên cũng không phải chỉ một mình Navarre đã đưa tới thảm kịch Điên Biên. Năm 1972, sau khi CSBV thất bại trong trận An Lộc, Bình Long, báo chí Sài Gòn có đăng một bài nhận định của một giới chức quân sự VNCH, ông này nói Việt Minh năm 1954 chỉ đánh được Pháp vì quân đội Pháp là một quân đội quá tồi. Nhận định này tuy hơi cực đoan nhưng không phải là thiếu cơ sở. Bernard Fall đã nói ở trên, không quân Pháp quá yếu. Thật vậy toàn bộ chiến trường Đông Dương hồi đó Pháp chỉ có trên 100 máy bay trong khi giữa thập niên 60 Không quân Mỹ và VNCH có trên 4,000 máy bay (24).
Tháng 6-1974, không quân VNCH có hơn 2,000 máy bay. Đứng thứ tư trên thế giới hồi đó (25) Những năm 1971, 1972 nếu kể cả Không quân Mỹ thì tổng cộng số máy bay tại miền nam VN có thể gấp vài chục lần số máy bay Pháp tại Đông dương năm 1954. Trên thực tế năm 1971, mặc dù có ưu thế về không quân nhưng cuộc hành quân Lam Sơn của VNCH đã gặp nhiều khó khăn, trắc trở huống hồ tại ĐBP, một hay hai trăm máy bay Pháp chỉ là muối bỏ biển trước màng lưới phòng không dày đặc của đối phương. Tại ĐBP Pháp phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp bốn lần. Tướng Giáp đã tung hết chủ lực quân vào trận đánh tổng cộng năm sư đoàn và chấp nhận hy sinh nhiều nhân mạng để đạt mục đích, đó cũng là một yếu tố quyết định đối với số phận ĐBP.
Ngay như VNCH và Mỹ năm 1971, tiếp tế cho các ngọn đồi tại Hạ Lào bằng không quân còn trở ngại huống hồ Không quân Pháp tại ĐBP. Với một lực lượng không quân quá yếu như vậy mà Navarre chọn lập căn cứ tại khu lòng chảo xa xôi chỉ tiếp tế bằng cầu không vận thì phải nói là một khuyết điểm lớn mà ai cũng chê trách. Ông ta đã khinh thường đối phương, chủ quan đến độ ngây thơ nên đã phải trả giá đắt.
Những lý do mà Navarre nêu ra trong toàn cuốn sách Đông Dương Hấp Hối, Agonie de l’Indochine để tự bênh vực có thể là hợp lý: áp lực địch quá mạnh, viện trợ của Trung Cộng cho Việt Minh gia tăng ồ ạt, cán cân lực lượng nghiêng về VM. Nhưng không thể phủ nhận được ông ta phải chịu trách nhiệm nặng nề cho sự sai lầm của mình. Logevall cho rằng đúng ra thay vì lập căn cứ ĐBP để bảo vệ Lào, Navarre giành lực lực lượng bảo vệ châu thổ sông Hồng quan trọng hơn. Trong trường hợp trận chiến lớn diễn ra tại đây, Pháp dễ tiếp tế, tăng viện hơn và có thể rút chạy khi cần hơn là bị chôn chân tại khu lòng chảo Điện Biên.
Như Navarre đã trình bầy, tình thế năm 1953, 1954 rất bi đát đối với Pháp tại Đông dương vì địch mạnh hơn Pháp, ta thử hỏi tại sao? cuộc chiến Đông Dương 1946-1954 chỉ là sự đương đầu giữa Mỹ và Trung Cộng hơn là giữa Việt Minh và Pháp. Hoặc nói khác đi sự đương đầu giữa Thế giới tự do và CS. Như Ted Morgan đã nói Mao có lợi thế hơn Mỹ tại chiến trường này, lệnh của Mao được thi hành ngay trong khi chính phủ Mỹ phải tham khảo Quốc hội, phải bàn luận, thăm dò ý kiến người dân. Từ đó ta suy ra lý do tại sao viện trợ của Mỹ cho Pháp lại ít hơn của Trung cộng cho VM tại chiến trường này.
Các trận chiến lớn tại Bắc Việt những năm 1952, 1953, 1954 không còn được coi là du kích chiến khi hai bên đã đánh tới cấp sư đoàn và năm 1954 ĐBP đã đánh tới cấp quân đoàn, Navarre đã gọi lực lượng chính qui địch là Quân đoàn VM. Trong những trận đánh lớn như vậy bên nào nhiều vũ khí đạn được, hỏa lực mạnh sẽ nắm ưu thế, cách đây hơn hai trăm năm, Napoléon đã từng nói bên nào nhiều đại bác sẽ nắm phần thắng. Như Navarre đã nói trong Đông Dương Hấp Hối, những năm 1953, 1954 Pháp ngày càng suy yếu hơn địch và trận ĐBP cũng chỉ là kết quả của tất nhiên của tình thế, của cán cân quân sự hai bên.
Embers of Wars trang 498 đăng hình một chiếc máy bay vận tải khổng lồ Mỹ tại phi trường Orly ngoại ô Paris ngày 23-4-1954 đang mở cửa cho lính nhẩy dù Pháp lên để bay tới ĐBP. Bức hình cho ta thấy sự khó khăn của Tây phương về tiếp viện, vận chuyển là nhường nào, người ta không thể ngờ việc tăng viện, chuyển quân có thể nhiêu khê như thế. Navarre đã so sánh vấn đề này cho rằng Trung cộng viện trợ cho VM bằng đường bộ và đường thủy gần ngay biên giới trong khi Pháp và Mỹ phải chuyên chở quân cụ, binh lính từ nửa vòng trái đất. Đây cũng là một trong những lý do chính đưa tới thất bại của Pháp, đưa quân đi chiến đấu tại một mảnh đất quá xa xôi, tốn kém rất khó hy vọng đạt thắng lợi.
Chú thích:
(1) Agonie de l’Indochine trang 197, 198
(2) Sách đã dẫn trang 251-255: Les Causes de La Chute de Dien Bien Phu
(3) Sách đã dẫn, trang 42, 47
(4) La Bataille de Dien Bien Phu, Julliard, 1963. Bản dịch The Battle of Dien Bien Phu
(5) Sách kể trên trang 1
(6) Sách kể trên trang 35, Machiavelli nhà sử gia, chính trị gia Ý (1469-1527)
(7) Sách kể trên trang 288, Barley d’Aurevilly nhà văn Pháp Thế kỷ 19
(8) Sách kể trên trang 288
(9) Sách kể trên, trang 289-291, 294, 304-306
(10) Quân sử 4, trang 159 với hình lòng chảo bị khai quang
(11) Quân sử 4 trang 172, 173
(12) Bernard Fall là người Pháp gốc DoThái , đậu Ph.D năm 1955, Giáo sư đại học tại Mỹ, tác già cuốn sách nổi tiếng viết về ĐBP, Hell in a Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu, in năm 1966. Phần kết luận từ trang 450-463.
(13) Sách kể trên trang 451, về điểm này trong Agonie de l’Indochine trang 220 Navvarre nói VM đã bắn hơn 200,000 quả đạn pháo binh và súng cối hạng nặng xuống ĐBP trong suốt trận đánh (…le nombre de projectiles d’artillerie et de mortiers lourds tirés par l’ennemi au cours de la bataiile a dépassé 200,000)
(14) Hell in a Very Small Place trang 455, 456
(15) Sách kể trên, trang VIII, IX
(16) Bernard Fall, Street Without Joy, các trang 316, 318, 320, 321, 324
(17) Fredrik Logevall, Embers of War, The Fall of An Empire And The Making Of America’s Vietnam, 2012, trang 543-546
(18) Ted Morgan- The Valley Of Death, The Tragedy At Dien Bien Phu That Led America In to The Vietnam War, 2010 trang 409, 410
(19) Sách kể trên, Epilogue trang 639, 640
(20) Dien Bien Phu, The epic Battle America Forgot, xuất bản 1994, tác giả Howard R. Simpson các trang xvii, xix, xx, xxi, xxiii, xxiv. Ông là cựu viên chức ngoại giao Mỹ, đã là phóng viên chiến trường ĐBP và nhiều chiến trường khác, Cố vấn của Giám đốc trường Hải quân và Phụ tá giám đốc văn phòng đặc trách Đông nam Á châu sự vụ, ông đã phỏng vấn nhiều người sống sót sau ĐBP tại VN, Pháp
(21) Sách đã dẫn, trang 179, 181
(22) Introduction of Neil Sheehan, trang xi-xx
(23) Agonie de l’Indochine trang 220
(24) Hell in a Very Small Place trang 458
(25) South Vietnam air force, www. globalsecurity.org; Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 877

Sơn Trần chuyển 

No comments: