Wednesday, July 3, 2013

Làm sao Trung Cộng có bom nguyên tử ?

 
 Ls Lê Đức Minh
 
Trong chiến lược thu tóm thế giới của mình Stalin không muốn thành lập một chi bộ cộng sản tại Á châu vì lo rằng Trung quốc sẽ trở thành lãnh tụ của khối này. Không có chi bộ cộng sản  Á châu, Trung quốc cũng như bất cứ quốc gia cộng sản nào khác, dù muốn hay không cũng phải coi Stalin là lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Stalin biết rằng Trung quốc dưới sự cai trị của Mao là một quốc gia cộng sản cuồng tín và có một nguồn nhân lực vô tận.
 Năm 1949 lãnh tụ cộng sản Bắc Hàn Kim Nhật  Thành sang Liên xô cầu xin Stalin giúp ông ta tấn công miền Nam và thống nhất đất nước. Stalin từ chối thẳng thừng vì sợ đụng độ với Hoa kỳ.
 Thất vọng họ Kim chạy sang cầu viện Mao. Mao đồng ý ngay lập tức. Hơn ai hết Mao thừa biết  Stalin rất muốn thấy Hoa kỳ đại bại tại Triều Tiên nhưng không dám trực diện chiến với Hoa kỳ. Trong thời gian tới Liên xô bệ kiến Stalin, Mao quyết định  Trung quốc sẽ trực diện đối đầu với Hoa kỳ tại Triều Tiên.  Theo Mao cuộc chiến tại  Triều Tiên cho ông ta một cơ hội vàng để hiện đại hóa bộ máy chiến tranh của  Trung quốc. Hồng quân Trung quốc sẽ đánh Mỹ cho Stalin tại Triều Tiên và đổi lại Liên Xô sẽ cung cấp cho Trung quốc phương tiện và kỹ thuật để sản xuất vũ khí hiện đại.
 Tuy nhiên khi Kim Nhật Thành tỏ ý rằng ông ta sẽ hoàn toàn đứng dưới trướng của Trung quốc nếu Stalin vẫn một mực từ chối giúp đỡ, Stalin bắt đầu suy nghỉ lại và cuối cùng ngày 30/01/1950 Liên xô gửi cho Kim một mật điện đồng ý hổ trợ Bắc Hàn, với điều kiện Trung quốc trực tiếp tham chiến tại Triều Tiên.
 Việc  Trung quốc và Bắc Hàn đánh Mỹ cho Liên  Xô một cơ hội có một không hai để thử nghiệm những vũ khí mới của mình, đặc biệt là các chiếc Mig, và đánh giá các vũ khí của Hoa kỳ cũng như thăm dò quyết tâm của Hoa kỳ trong cuộc chiến chống cộng sản.
 Theo Stalin, Trung quốc và Bắc Hàn đều phụ thuộc hầu như toàn bộ vào vũ khí của Liên  Xô cho nên Stalin có thể điều khiển tiến triển của cuộc chiến Triều Tiên theo ý của ông ta.
 Ngày 1/7/1950, một tuần sau Hồng quân  Trung quốc trong quân phục của quân đội Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Thủ tướng Chu Ân Lai nhắn với Stalin thông qua đại sứ Liên  Xô tại Bắc Kinh rằng nay đã đến lúc  Trung quốc cần có không quân và cả hải quân để tham chiến tại Triều Tiên.
 Ngày 01/03/1951 Mao thông báo với Stalin rằng ông ta sẽ kéo dài cuộc chiến Triều Tiên vài năm để giết cho được vài trăm ngàn  binh sĩ Hoa kỳ. Mao cho Stalin biết rằng ông ta không quan tâm đến số lượng Hồng quân sẽ hy sinh tại Triều Tiên để giúp Stalin tiêu  hao sinh lực của Hoa kỳ nhưng đổi lại  Stalin phải giúp  Trung quốc xây dựng một quân đội và một nền công nghiệp sản xuất vũ khí hiện đại.
 Mao đòi Stalin viện trợ 147 nhà máy vũ khí hạng nặng bao gồm những nhà máy sản xuất máy bay quân sự, tàu chiến, 1000 xe tăng hạng nhẹ mỗi năm và một nhà máy sản xuất tăng hạng vừa trong năm năm đến.
 Stalin luôn luôn lo sợ rằng khi có vũ khí hiện đại Trung quốc sẽ trở thành đối thủ của mình. Tuy nhiên khi cuộc chiến Triều tiên tiếp diễn, nhu cầu vũ khí quá lớn khiến Liên xô tin rằng cung cấp cho Trung quốc nhà máy và kỹ thuật để sản xuất vũ khí có lợi hơn là bắt dân Liên  Xô phải sản xuất vũ khí cho Trung quốc và Bắc Hàn dùng. Kết quả là các chuyên gia Liên  Xô đã sang Trung quốc giúp xây dựng những nhà máy  và chuyển giao kỹ thuật sản xuất từ súng tiểu liên AK cho đến xe cơ giới, xe tăng, các công xưởng lắp ráp Mig, tàu chiến. Tuy nhiên Stalin ra lệnh không chuyển giao những công nghệ vũ khí tinh vi ví dụ như kỹ thuật sản xuất động cơ phản lực.
 Lúc chiến tranh Triều tiên kết thúc  Trung quốc đã có phương tiện để sản xuất tất cả vũ khí từng được dùng trong cuộc chiến này. Là một quốc gia rất nghèo, Trung quốc lúc bấy giờ đã có lực lượng không quân đứng hàng thứ 3 trên thế giới với hơn 3000 chiếc Mig. Các nhà máy của Trung quốc có thể sản xuất tối đa 3600 chiến đấu cơ một năm!
 Để có được nền công nghệ vũ khí như trên, theo tài liệu của Liên  Xô, khoảng 1 triệu Hồng quân  Trung quốc đã bỏ mạng trong cuộc chiến Triều  Tiên. Tuy nhiên Mao không coi con số này là quan trọng vì trong hơn 3 triệu quân Trung quốc tham chiến tại Triều Tiên có hơn 2/3 là các binh sĩ của chế độ Tưởng Giới  Thạch bị mắc kẹt ở Đại Lục sau năm 1949 và bị Mao lùa sang tham chiến ở Triều Tiên dưới tên gọi “chí nguyện quân”. Hơn 20 ngàn tù binh Hồng quân sau chiến tranh khi được trao trả đã từ chối về đại lục và đã chọn sang sinh sống tại Đài Loan.
 Sự thật là khi Stalin muốn có quan hệ nhẹ nhàng hơn với Hoa kỳ và quyết định chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, Mao vẫn kiên quyết tiếp tục cuộc chiến với ý đồ rằng ông ta sẽ chưa chấm dứt chiến tranh Triều Tiên chừng nào Liên Xô chưa giúp Trung quốc có được nền công nghiệp vũ khí mà Mao yêu cầu. Bản thân Kim Nhật Thành cũng không muốn cai trị một Bắc Hàn chỉ còn là đống gạch vụn yêu cầu Mao chấm dứt chiến tranh nhưng Mao không nghe.  Cuối cùng  Stalin bảo với Mao rằng nếu Mao hợp tác và chấm dứt chiến tranh thì Liên  Xô sẽ thõa mãn yêu cầu của Mao. Thế là cuối cùng Stalin đã giúp Mao có được 91 nhà máy trong tổng số 147 nhà máy mà Mao yêu  cầu.
 Sau khi  Stalin qua đời, các lãnh tụ Sô Viết tin rằng một nước Trung quốc có vũ khí hiện đại có lợi cho phong trào cộng sản toàn thế giới. Sự thay đổi này đã giúp cho Trung quốc nhanh chóng thực  hiện được tham vọng có vũ khí nguyên tử.
 Ngày 2/2/1953 tổng thống Mỹ Eisenhower đề nghị dùng bom nguyên tử tấn công Trung quốc. Khi nghe lời đe dọa này, Mao vui mừng khôn xiết vì biết rằng ông ta đã có cớ để yêu cầu Liên  Xô giúp sản xuất bom nguyên tử.
 Theo lời một nhân vật thân cận của Mao là Bo Yi-bo thì từ khi hai trái bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagashaki, Mao cực kỳ lo sợ và ông ta hầu như lúc nào cũng nhắc đi  nhắc lại rằng Trung quốc chưa có bom nguyên tử. Tuy thế ngoài mặt Mao lúc nào cũng tuyên bố rằng bom nguyên tử chỉ là “con hổ giấy” và sức mạnh thực sự nằm ở nhân dân. Ý Mao muốn nói rằng không có  bom nguyên tử nào có thể giết hết người  Trung quốc được.
 Ngay sau khi có lời tuyên bố của Eisenhower, khoa học gia nguyên tử hàng đầu của Trung quốc là  Qian  San-qiang được Mao phái sang Liên Xô.  Thông điệp của Mao rất rõ ràng “hãy cho chúng tôi bom nguyên tử và quý vị sẽ không bao giờ phải có chiến tranh nguyên tử với Hoa kỳ”.
 Qian  San-qiang nổ lực vận động Liên  Xô chuyển giao công nghệ nguyên tử cho  Trung quốc nhiều lần, nhưng lần nào cũng bị từ chối. Cuối cùng biết không đòi hỏi gì được vào lúc đó, Mao cho rút đoàn chuyên gia nguyên tử của  Trung quốc về nước và chuyên tâm vào các công nghệ chế tạo vũ khí cổ điển mà Liên Xô vừa chuyển giao.
 Cuối cùng cơ hội của Mao đã đến.  Tháng 6/1957 một nhóm đảng viên cao cấp trung thành với chủ nghĩa Stalin đã làm đảo chánh lật đổ Khrushchev. Tuy cuộc đảo chính không thành nhưng vị trí của Khrushchev bị lung lay tận gốc. Ông ta cần có sự ủng hộ của các quốc gia cộng sản khác, đặc biệt là Trung quốc để củng cố vị trí của mình.
 Trong khi các nước cộng sản khác gửi công hàm ủng hộ Khrushchev, Mao vẫn làm thinh coi như không có ý kiến gì. Khrushchev liền gửi đặc sứ của mình là Mikoyan sang Trung quốc gặp Mao, lúc đó đang nghỉ mát tại Hàng Châu. Mao để cho tay đặc sứ nói suốt đêm. Gần sáng Mao mới cho người đem công hàm đã chuẩn bị sẳn từ trước ra.  Dĩ nhiên Mao ủng hộ Khrushchev làm ông chủ điện Kremlin nhưng dĩ nhiên Khrushchev phải tỏ ra biết điều. Mao chỉ cần Khrushchev chuyển giao công nghệ nguyên tử.
 Mạc Tư Khoa tỏ ra  biết điều. Khrushchev ra lệnh chuyển giao công  nghệ nguyên tử cho Trung quốc cùng với công nghệ sản xuất hỏa tiển, và một số công nghệ sản xuất Mig đời mới.
 Đại hội quốc tế cộng sản được dự trù khai mạc vào ngày 7/11/1957 để kỷ niệm 40 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga. Khrushchev muốn Mao phải có mặt để bày tỏ sự ủng hộ cho ông ta.
 Mao khai thác sự kiện này triệt để. Mao cho biết ông ta chỉ tham dự đại hội với điều kiện Liên Xô phải ký với Trung quốc một cam kết chuyển giao toàn bộ kỹ thuật nguyên tử và giúp  Trung quốc chế tạo thành công bom nguyên tử.
 Ngày 15/10/1951 ba tuần trước ngày đại hội, Liên  Xô ký một cam kết có tính chất định mệnh và trao cho Trung quốc một trái bom nguyên tử mẫu.  Đồng thời các cơ quan  nguyên tử của Liên  Xô được lệnh cung cấp cho Trung quốc bất cứ thứ gì để họ có thể chế được một trái bom nguyên tử đầu tiên.
Sau đó nhiều chuyên viên về hỏa tiển của Liên  Xô được lệnh sang làm việc tại  Trung quốc đến mức độ nhiều chương trình hỏa tiển của Liên Xô bị đình trệ. Với sự giúp đỡ của Liên Xô trong giai đoạn này số khoa học gia nguyên tử của  Trung quốc từ 60 tăng lên đến 6000!
 Theo ước tính của các chuyên viên phương Tây, chi phí Trung quốc dùng để chế tạo trái bom đầu tiên lên đến 4.7 tỷ đô la thời giá 1957.  Đa số chi phí này được chi trả bằng cách bán nông sản.
 Ngày 4/10/1957 Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên lên không gian. Liên Xô đã qua mặt các nước phương Tây trong lĩnh vực không gian. Ngay lập tức Mao tuyên bố ông ta phải có vệ tinh nhân tạo ngay.
 Vệ tinh Sputnik của Liên Xô nặng 83.6 kg. Năm 1958 Hoa kỳ phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên nặng 8.22 ký. Tháng 8/1958 Mao tuyên bố vệ tinh của Hoa kỳ chỉ là một quả trứng vịt. Ông ta tuyên bố rằng Trung quốc phải phóng một vệ tinh nhân tạo nặng hơn vệ tinh của Liên Xô và Hoa kỳ vào năm 1960!
 Cứ như thế Trung quốc đã thu tóm được kỹ thuật khoa học không gian của Liên Xô, dẫn đến việc ngày nay Trung quốc là một trong ba quốc gia có kỹ thuật khoa học không gian hàng đầu thế giới.
 Khi đề cập đến việc này các chuyên gia Nga luôn luôn khẳng định rằng họ chính là cha đẻ của bom nguyên tử và cả phi thuyền vũ trụ của  Trung quốc.
 
 Ls Lê Đức Minh
Tài liệu tham khảo
Jung Chang & Jon Halliday, Mao Unknown Story, Vintage Book London, 2006

No comments: